
Tin tức
Đừng làm nền kinh tế nguội lạnh (31/05)
31/05/2011 - 14 Lượt xem
Lạm phát ở nước ta trong năm 2011, theo một tính toán lạc quan nhất, cũng sẽ lên đến hai con số. So với các nước trong khu vực Đông Á, bao gồm Trung Quốc, mức lạm phát này thuộc hàng cao nhất. Chúng ta có thể tự hỏi rằng, vì sao cùng chịu hậu quả khắc nghiệt của cuộc khủng hoảng toàn cầu, cùng chịu áp lực của việc tăng giá nhiên liệu và lương thực quốc tế, lạm phát tại nước ta thường xuyên có xu hướng cao hơn hẳn các nước láng giềng, đặc biệt vào những tháng đầu năm 2011?
Hiện tượng này chắc chắn không phải do ảnh hưởng của gói kích cầu mà Chính phủ đã thực hiện trong hai năm 2009 và 2010, vì các nước khác đều đồng loạt thực hiện các gói kích thích kinh tế cùng trong thời điểm đó với quy mô lớn hơn chúng ta rất nhiều nhằm đối phó với tình hình kinh tế trì trệ.
Cũng không thể đổ hết lỗi cho chính sách tiền tệ của năm trước, vì Ngân hàng Nhà nước không thể không nới lỏng tiền tệ trong điều kiện phải kích thích nền kinh tế vượt qua suy thoái. Hơn nữa, chính sách tiền tệ của nước ta chưa bao giờ mở rộng hơn so với các quốc gia láng giềng, bằng chứng là lãi suất cơ bản được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam áp dụng thường xuyên cao hơn các đồng nghiệp của họ trong khu vực, mức này vẫn rất cao ngay trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế. Nhưng có hai yếu tố khác biệt rõ nét.
Tình trạng kém hiệu quả của đầu tư công đã khiến cho chỉ số ICOR trong nền kinh tế nước ta hiện nay lên đến mức khó chịu là 8, có nghĩa là cần phải đầu tư đến 8 đồng để tạo ra thêm 1 đồng sản phẩm cho GDP. Chỉ số ICOR cao cho thấy áp lực lạm phát gây ra bởi đầu tư không hiệu quả đối với nền kinh tế trong nhiều năm qua nặng nề như thế nào.
Thứ hai, trên tiến trình thị trường hóa, nước ta đang phải thực hiện nhiều cuộc điều chỉnh giá cả các mặt hàng then chốt, trong đó gây tác động tăng giá dây chuyền nhiều nhất là tỷ giá, giá điện và giá xăng dầu. Nhiều người có thể biện minh rằng các cuộc điều chỉnh đó cũng chưa làm cho giá điện, giá xăng dầu tại Việt Nam cao hơn các nước trong khu vực. Nhưng chính điều đó đã tạo nên một kỳ vọng tăng giá và là nguyên nhân chủ yếu khiến cho lạm phát tại nước ta luôn có xu hướng cao hơn các nước láng giềng, xu hướng này sẽ vẫn tồn tại ít nhất là cho đến khi cơ chế giá bao cấp hoàn toàn chấm dứt và nền kinh tế nước ta thực sự bước vào cơ chế thị trường hoàn chỉnh.
Mặt khác, chúng ta luôn theo đuổi một chính sách tỷ giá có xu hướng đánh giá cao đồng bạc Việt Nam so với đồng đô la Mỹ.
Một nghiên cứu về lạm phát của Nguyễn Đức Thành và Nguyễn Thị Thu Hằng thuộc Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách, Trường đại học Quốc gia Hà Nội đã chứng minh rằng "tỷ giá thực tế của đồng Việt Nam so với USD trong những năm gần đây giảm mạnh mặc dù tỷ giá danh nghĩa có xu hướng tăng lên rõ rệt, và khoảng cách giữa hai tỷ giá ngày càng mở rộng, đặc biệt là hai năm 2008 và 2009. Nếu lấy năm 2000 làm gốc thì đồng Việt Nam đã lên giá xấp xỉ 38%". Điều này làm xuất hiện thường xuyên kỳ vọng về khả năng giảm giá trong tương lai của đồng Việt Nam so với đồng đô la Mỹ.
Cuối cùng nhưng không kém quan trọng, chi phí tài chính, cụ thể là lãi suất và thuế suất, tại Việt Nam tương đối cao hơn các nước khác trong khu vực và chắc chắn các chi phí này đã có tác động không nhỏ trong việc tăng CPI.
Như vậy lạm phát tại nước ta chứa đựng những áp lực tăng giá nội tại khác với các nền kinh tế khác, trong đó, yếu tố tăng giá do các biện pháp điều chỉnh chiếm một vai trò quan trọng. Việc điều chỉnh tỷ giá, giá xăng dầu và giá điện, một việc không thể không làm trong tiến trình đưa nền kinh tế tiến đến cơ chế thị trường hoàn chỉnh, đã làm gia tăng chỉ số CPI rất nhiều, nhất là khi việc điều chỉnh được thực hiện trong các thời điểm nhạy cảm, dễ tạo nên các hiệu ứng cộng hưởng.
Chưa có tính toán chính xác về tác động của các biện pháp điều chỉnh giá xăng, giá điện đối với cường độ gia tăng CPI, nhưng điều có thể biết được là tác động này rất mạnh.
Tăng giá do điều chỉnh giá không có mối liên hệ với sự gia tăng cung tiền tệ trước đó, nhưng việc thắt chặt cung tiền tệ sau điều chỉnh có nghĩa là người tiêu dùng và nhà sản xuất bị thắt chặt hầu bao, không thể nào duy trì mức sinh hoạt và sản xuất như trước. Làm điều này chẳng khác nào chúng ta một mặt thực hiện các biện pháp điều chỉnh để xây dựng mặt bằng giá mới cho nền kinh tế, mặt khác lại tìm cách ngăn chặn nền kinh tế thích nghi với mặt bằng giá mới.
Nhưng điều quan trọng hơn là nếu chúng ta không loại trừ được các yếu tố tăng giá do các biện pháp điều chỉnh trong việc tính toán mức lạm phát thực của nền kinh tế, cái bóng của "con ngáo ộp" lạm phát sẽ lớn hơn nhiều so với hình dáng thật của nó và sự sợ hãi sẽ dễ dàng khiến chúng ta áp dụng các biện pháp chống lạm phát không phù hợp hoặc quá liều lượng.
Một sự thắt chặt tiền tệ quá mức, chẳng hạn với một mức lãi suất cao chót vót như hiện nay, sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng sẽ giảm sụt mạnh, nền kinh tế có nguy cơ lâm vào tình hình lạm phát trì trệ.
Chống lạm phát là một nỗ lực cần thiết, nhưng sẽ trở nên vô nghĩa nếu nó làm chúng ta xa rời mục tiêu duy trì nhịp độ tăng trưởng ổn định và có chất lượng cho nền kinh tế. Trong thời gian qua, áp lực lạm phát đã xuất hiện mạnh mẽ vì tổng thu nhập khả dụng tăng nhanh nhưng chủ yếu là do chênh lệch giá trị tài sản quá lớn, không phải do sự gia tăng của tài sản thực.
Phần chênh lệch giá trị tài sản này, hầu hết là từ đất đai và chứng khoán, không những làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư mà còn làm giảm hiệu quả của việc sung dụng tài nguyên đất nước (đặc biệt là nguồn vốn), dẫn đến làm giảm hiệu quả đầu tư của toàn nền kinh tế. Đây mới là một vấn đề lớn của nền kinh tế nước ta và nếu không giải quyết được vấn đề này một cách rốt ráo, nền kinh tế nước ta sẽ dễ dàng sa vào bẫy thu nhập trung bình, tốc độ tăng trưởng sẽ chậm lại trong một thời gian dài.
Trước mắt, để vừa kiểm soát hữu hiệu lạm phát vừa duy trì một nhịp độ tăng trưởng hợp lý, một chính sách tài khóa tiết kiệm cần phải đi kèm với một chính sách tiền tệ năng động, cởi mở một cách có chọn lọc. Tiết kiệm công chi, giảm mức đầu tư công là biện pháp cần thiết, nhưng một khi đầu tư công đã giảm bớt, nó phải được thay thế bằng đầu tư tư có hiệu quả hơn để duy trì tăng trưởng kinh tế, duy trì mức nhân dụng. Tín dụng hướng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, xuất khẩu cần phải được giữ vững và phát triển hợp lý, trong khi tín dụng vào các lĩnh vực phi sản xuất, các lĩnh vực đã từng phát triển bong bóng như bất động sản, chứng khoán cần được hạn chế.
Mặt khác, cần phá vỡ tình trạng đóng băng tài sản bất động sản thế chấp bằng cách tạo nên những định chế và những công cụ tài chính thích hợp nhằm tạo nguồn thanh khoản cần thiết cho hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng cần được hỗ trợ mạnh mẽ để phục hồi thanh khoản, một bước quan trọng để tiến tới giảm lãi suất huy động và cho vay.
Tình trạng lãi suất cao hiện nay đang là một hiểm họa không những đối với doanh nghiệp mà còn cả đối với hệ thống ngân hàng và công ăn việc làm của người lao động. Nhiều doanh nghiệp đang thu hẹp sản xuất kinh doanh và than vãn rằng "họ cố làm để trả hết các khoản vay từ trước, xong sẽ đóng cửa nghỉ ngơi". Nếu điều này kéo dài, nền kinh tế sẽ có nguy cơ nguội lạnh, tình trạng bãi đầu tư sẽ xảy ra và lúc đó mọi hy vọng vượt khỏi vũng lầy suy thoái sẽ hoàn toàn trông cậy vào sức sống bền bỉ và mạnh mẽ của khu vực kinh tế tiền mặt ngoài hệ thống ngân hàng.
Nguyễn Đức Thành và Nguyễn Thị Thu Hằng, đồng tác giả bài nghiên cứu về "Nguồn gốc lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2000-2010: Phát hiện mới từ những bằng chứng", đã có lý khi nhận định rằng "...việc khuyến khích tăng trưởng kinh tế thông qua gia tăng năng suất lao động và tăng sản lượng có tác động tích cực hơn trong việc kiểm soát lạm phát trong dài hạn so với các biện pháp tiền tệ và phi tiền tệ".
Mong rằng các nhà lãnh đạo kinh tế vĩ mô của chúng ta sẽ lưu ý quan tâm nhiều hơn đến mục tiêu duy trì sức sống và sự phát triển của nền kinh tế thực, nền kinh tế của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, của công ăn việc làm của người lao động, của sự sung dụng hiệu quả và tiết kiệm các nguồn tài nguyên đất nước trong việc xây dựng và thực hiện các biện pháp tài chính và tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế.
Nguồn: Vietnamnet
