
Tin tức
Để thực hiện mục tiêu tăng trưởng 6% (06/06)
06/06/2011 - 25 Lượt xem
Mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2011 vừa được Chính phủ điều chỉnh về 6%, cao hơn tốc độ tăng của quý I (5,43%) và tốc độ tăng trong 6 tháng (5,6%). Theo đó, tốc độ tăng trưởng GDP qua các năm gần đây và mục tiêu năm 2011 như sau:
![]() |
Nguồn số liệu: - 2008, 2009, 2010, quý I/2011: Tổng cục Thống kê;
Trong điều kiện phải kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, việc tăng trưởng chậm lại là hiệu ứng phụ tất yếu; việc điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng GDP là cần thiết và là sự lựa chọn phù hợp, nếu thấp hơn sẽ tác động xấu đến công ăn việc làm, nếu cao hơn sẽ nóng, ngược với mục tiêu ưu tiên kiềm chế lạm phát.
Điều này chắc chắn sẽ được người dân, doanh nghiệp, các chuyên gia đồng thuận và tin tưởng vào quyết tâm chống lạm phát của Chính phủ. Cũng từ đây, người dân sẽ tin tưởng để bước vào thập kỷ thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng về chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc nền kinh tế.
Việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng dự kiến là 6% không dễ dàng, bởi Việt Nam vẫn chưa thể lơ là với việc kiềm chế lạm phát, chính sách tài khóa vẫn phải tiếp tục thắt chặt, chính sách tiền tệ vẫn phải chặt chẽ, thận trọng, mặt bằng lãi suất vẫn còn rất cao, vượt qua khả năng sinh lời của doanh nghiệp, làm cho việc tiếp cận vốn của doanh nghiệp khó khăn, nhập siêu còn lớn và gia tăng qua các tháng,… Điều chỉnh cả năm về 6%, nhưng vẫn phải giữ xu hướng tăng cao lên qua các quý (quý I tăng 5,43%, quý II tăng khoảng 5,77%, 6 tháng đầu năm tăng 5,6%, 6 tháng cuối năm tăng khoảng 6,4%).
Trong điều kiện hiện nay, có thể cần phải áp dụng nhiều giải pháp ở cả đầu vào và đầu ra.
Ở đầu vào có 3 yếu tố: vốn đầu tư, lao động và năng suất tổng hợp (gồm hiệu quả đầu tư và năng suất lao động xã hội).
Vốn đầu tư của khu vực nhà nước trong điều kiện cắt giảm đầu tư công, sẽ tăng thấp, tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội sẽ giảm xuống (năm 2010 là 38,1%, thấp hơn tỷ trọng 40,5% của năm 2009). Vấn đề đặt ra là phải hướng vào việc hoàn thành các công trình còn đang dở dang, các công trình có khả năng hoàn thành trong năm để nhanh chóng đưa vào sử dụng, phát huy hiệu quả cao. Tăng cường giám sát, kiểm tra, tránh dàn trải, lãng phí, thất thoát. Tăng nhanh tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực kinh tế ngoài nhà nước (2010 chiếm 36,1%) và hướng việc đầu tư trực tiếp vào sản xuất, kinh doanh, tránh chạy lòng vòng vào các kênh đầu tư không trực tiếp sản xuất, kinh doanh, có độ rủi ro cao. Khuyến khích, đồng thời rà soát, chọn lọc các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đẩy nhanh giải ngân nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức; tiếp thu nguồn vốn đầu tư gián tiếp. Chuyển dịch cơ cấu tín dụng.
Trong điều kiện tỷ lệ vốn đầu tư phát triển toàn xã hội/GDP bị giảm (năm 2010 là 41,9%, quý I/2011 giảm xuống còn 38,8%, khả năng cả năm sẽ còn thấp hơn), để GDP tăng 6%, phải nâng cao hiệu quả đầu tư, giảm hệ số ICOR, nếu không thì khó đạt được tốc độ tăng trưởng GDP theo mục tiêu và chất lượng tăng trưởng sẽ bị giảm. Để nâng cao hiệu quả đầu tư, ngoài việc làm tốt hơn công tác quy hoạch, giảm lãng phí, thất thoát, đẩy nhanh tiến độ thi công,…, cần phải chuyển dịch mạnh hơn cơ cấu đầu tư: tăng tỷ trọng đầu tư vào nhóm ngành nông, lâm nghiệp- thủy sản (hiện đang còn thấp xa so với tỷ trọng GDP của nhóm ngành này); tăng tỷ trọng cho công nghiệp hỗ trợ, sản xuất hàng xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Tốc độ tăng số lượng lao động của Việt Nam thuộc loại cao (năm 2010 tăng 2,92%), giá nhân công còn rẻ, nhưng lợi thế này đang có xu hướng giảm dần. Việc giải quyết việc làm và thu nhập trong điều kiện kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên, có hiệu ứng phụ làm suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế, cũng vì thế mà không dễ dàng. Vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp cần tìm mọi biện pháp để giữ chân người lao động, trả công hợp lý; Nhà nước thông qua chương trình việc làm, xuất khẩu lao động, hỗ trợ người lao động; người lao động cần phát huy tính năng động, sáng tạo và chia sẻ trong điều kiện đất nước lúc khó khăn.
Vấn đề tăng năng suất lao động - yếu tố có tầm quan trọng hàng đầu để nâng cao hiệu quả, tăng sức cạnh tranh, kiềm chế lạm phát, kiềm chế nhập siêu - vẫn cần được quan tâm. Năng suất lao động xã hội của Việt Nam năm 2010 đạt 40,2 triệu đồng/người, tương đương với khoảng 2.062 USD (trong đó của nông, lâm nghiệp chỉ đạt 17,2 triệu đồng/người,…), thấp hơn nhiều so với mức bình quân của khu vực châu Á và thế giới, do vậy việc tăng năng suất lao động lại càng quan trọng. Để nâng cao năng suất lao động, cần thực hiện nhiều giải pháp. Tăng tỷ trọng lao động đang làm việc đã qua đào tạo. Quan trọng hơn là nâng cao chất lượng giáo dục- đào tạo - dậy nghề, coi đây là chìa khóa của khoa học- công nghệ, động lực của tăng trưởng. Chuyển dịch cơ cấu lao động từ các nhóm ngành có năng suất lao động thấp sang nhóm ngành có năng suất lao động cao.
Ở đầu ra, quan tâm đến tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Tốc độ tăng tiêu thụ trong nước trong điều kiện lạm phát và kiềm chế lạm phát, đang có xu hướng chậm lại. Vấn đề đặt ra là chuyển dịch cơ cấu tiêu thụ trên cơ sở đẩy mạnh cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” để vừa khuyến khích sản xuất trong nước, vừa góp phần kiềm chế nhập siêu.
Xuất khẩu 5 tháng đầu năm 2011 tăng trưởng khá cao, nhưng tỷ trọng nguyên liệu thô, hàng nông sản chưa qua chế biến hoặc mới sơ chế, hàng gia công, lắp ráp còn cao; kim ngạch nhập khẩu vẫn còn tăng lớn (29,7%), trong đó tỷ trọng hàng cần kiểm soát, cần hạn chế nhập khẩu tuy tỷ trọng thấp, nhưng vẫn còn tăng; riêng tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu ô tô cao gấp đôi tốc độ tăng chung, tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng tăng thấp chỉ bằng một nửa tốc độ tăng chung.
Nhập siêu gia tăng qua các tháng, với quy mô lớn vừa cạnh tranh thị phần của sản phẩm sản xuất trong nước, vừa làm khuyếch lạm phát trong nước, vừa tác động xấu đến cán cân thanh toán, “bào mòn” dự trữ ngoại hối quốc gia. Nhập siêu đang là vấn đề nóng thứ 2 hiện nay, cần phải được kiềm chế.
Nguồn: Chinhphu.vn
