
Tin tức
Gần 20 năm, Việt Nam vẫn loay hoay với kinh tế biển (17/06)
17/06/2011 - 19 Lượt xem
Đối với Việt Nam, phát triển kinh tế biển có ý nghĩa rất quan trọng, không chỉ trong lĩnh vực kinh tế, mà cả về an ninh quốc phòng. Trong nghị quyết được ban hành vào năm 1993, Bộ Chính trị đã khẳng định: "Trở thành một nước mạnh về biển là mục tiêu chiến lược".
Đồng thời, nghị quyết cũng nhấn mạnh mọi hoạt động phát triển kinh tế và các hoạt động liên quan đến biển phải chú trọng đến việc bảo vệ môi trường sinh thái, bảo đảm cho sự phát triển lâu bền.
Chủ trương có nhưng thực thi chưa tốt
Bốn năm sau, Trung ương Đảng lại ban hành tiếp Chỉ thị số 20, trong đó đưa ra quan điểm phát triển kinh tế biển phải dựa trên tiến bộ khoa học và công nghệ làm động lực; thúc đẩy nghiên cứu, quản lý, khai thác tiềm năng biển có hiệu quả, và tái tạo tài nguyên biển, bảo vệ môi trường, đào tạo nguồn nhân lực.
Từ những thông tin nói trên có thể thấy ngay từ đầu Việt Nam đã có hướng tiếp cận tích cực đối với vấn đề phát triển kinh tế biển. Đó là mọi hoạt động kinh tế phải gắn với bảo tồn, phát triển tài nguyên biển và bảo vệ môi trường; phát triển kinh tế biển phải dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ để quản lý và khai thác tiềm năng biển có hiệu quả.
Nhưng khi xét đến yếu tố môi trường, bảo tồn và tái tạo tài nguyên thì còn rất nhiều vấn đề phải giải quyết. Việc khai thác, đánh bắt quá mức ở vùng ven bờ khiến cho nguồn tôm, cá bị suy kiệt nghiêm trọng. Hoạt động khai thác khoáng sản, nuôi trồng thủy sản cùng các khu du lịch và các khu công nghiệp ven biển... đã tàn phá môi trường sinh thái một cách nặng nề.
![]() |
Mới tận thu, chưa phát triển
Có thể nói, trong nhiều năm qua, chúng ta đã khai thác, tận thu biển chứ không phải phát triển kinh tế biển. Như vậy, những gì diễn ra trong thực tế đã khác hẳn với hướng tiếp cận cũng như quan điểm về phát triển kinh tế biển được hình thành vào thập niên 90 của thế kỷ trước. Rõ ràng, nguyên nhân là do sự yếu kém trong khâu quản lý và quá trình triển khai thực hiện.
Điểm yếu kém đầu tiên phải kể đến là tình trạng chậm biến những chủ trương, đường lối thành những chiến lược, kế hoạch cụ thể. Bên cạnh đó, để một chiến lược phát triển kinh tế biển có tính khả thi trong thực tế, còn cần phải có những nghị định, thông tư hướng dẫn làm hành lang pháp lý cho việc triển khai thực hiện. Công việc này thậm chí còn chậm hơn nữa.
Tại hội thảo về phát triển kinh tế biển diễn ra ở Khánh Hòa vào tuần trước, vấn đề thiếu hành lang pháp lý tiếp tục được nhiều diễn giả nêu ra. Ngoài ra, chủ trương phát triển kinh tế biển thường chỉ được cụ thể hóa ở mức hình thành các bản quy hoạch ngành.
Ở đây, chưa nói đến vấn đề chất lượng cũng như tính khả thi của quy hoạch, ngay việc triển khai thực hiện cũng bị buông lỏng, dẫn đến tình trạng quy hoạch bị phá vỡ, gây không ít lãng phí và những hậu quả khôn lường cho nền kinh tế. Sự phát triển quá mức của các khu kinh tế ven biển, cảng trung chuyển ở khu vực miền Trung... là một ví dụ.
Một bất cập nữa liên quan đến tính đồng bộ cũng như điều kiện khả thi trong các kế hoạch phát triển hướng ra biển. Đơn cử như chương trình phát triển đánh bắt xa bờ. Việc khuyến khích ngư dân đóng tàu lớn để đi đánh bắt ở vùng nước sâu là đúng.
Tuy nhiên, điều kiện thực tế của Việt Nam chưa thể hình thành những hải đội tàu đánh cá lớn, có thể rong ruổi trên biển trong nhiều tháng liền. Những tàu đánh cá được cho là lớn của ngư dân Việt Nam, cũng chỉ có thể bám biển trong vài tuần lễ.
Lẽ ra, việc khuyến khích ngư dân đóng tàu phải kèm theo giải pháp để giúp họ có điều kiện đánh bắt dài ngày hơn, chẳng hạn như thành lập các trung tâm dịch vụ hậu cần ngoài khơi, tại các đảo xa của Việt Nam hoặc tổ chức các đội tàu dịch vụ, để cung cấp nước ngọt, thực phẩm, xăng dầu cùng những dịch vụ thiết yếu khác và mua lại các sản phẩm đánh bắt được. Đó là chưa nói đến vấn đề đào tạo kỹ năng và kinh nghiệm đánh bắt xa bờ. Vì vậy, đến nay ngư dân Việt Nam cũng chỉ có thể loanh quanh đánh bắt trong khu vực biển Đông.
Quá nhiều đầu mối Năm 2010, Chính phủ đã phê duyệt quy hoạch phát triển kinh tế biển, đảo Việt Nam đến năm 2020. Bản quy hoạch này đề cập khá chi tiết và toàn diện các lĩnh vực cần đầu tư, phát triển, từ kết cấu hạ tầng để phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế biển và cải thiện điều kiện sinh sống của người dân; hệ thống dịch vụ nghề cá để hỗ trợ hoạt động đánh bắt xa bờ, hoạt động du lịch, vận tải biển, cho đến các dịch vụ y tế, giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực và vấn đề an ninh quốc phòng. Đáng chú ý là quy hoạch còn xác định những công trình cụ thể cần đầu tư. Kinh phí thực hiện quy hoạch này lên đến 162.500 tỉ đồng, trong đó ngân sách nhà nước chiếm 60%. Khối lượng công việc, cũng như các công trình cần đầu tư được nêu ra trong bản quy hoạch là rất lớn. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là chúng sẽ được thực hiện như thế nào? Theo quyết định của Chính phủ, người có nhiệm vụ phải trả lời là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, các bộ ngành có liên quan khác cùng UBND các tỉnh có biển, đảo trực thuộc trung ương. Việc có quá nhiều cơ quan, đơn vị cùng được giao nhiệm vụ thực hiện quy hoạch này, liệu có gây ra sự chồng chéo, thủ tục rườm rà làm kế hoạch bị chậm trễ hoặc không triển khai được hay không. Vì vậy, nên chăng thành lập một cơ quan ngang bộ để chỉ huy toàn bộ chiến lược phát triển kinh tế biển, đảo, như Tiến sĩ Trần Du Lịch đề xuất tại hội nghị ở Khánh Hòa, nhằm bảo đảm mọi mục tiêu và chương trình đầu tư được thực hiện như mong muốn. Ngoài ra, Chính phủ cũng cần xem xét chọn một số chương trình đầu tư có tính cấp bách và mang lại hiệu quả cao về kinh tế, an ninh quốc phòng để ưu tiên thực hiện sớm. Chẳng hạn như các chương trình đầu tư để hỗ trợ cho hoạt động đánh bắt xa bờ, gồm các căn cứ dịch vụ nghề cá tại các đảo xa, cơ sở hạ tầng thiết yếu để phát triển công nghiệp chế biến hải sản ngay tại các đảo có nhiều người sinh sống. Trong đó, nên đặc biệt ưu tiên xây dựng cơ sở hậu cần nghề cá, dịch vụ cứu hộ và cứu nạn ở các đảo thuộc quần đảo Trường Sa để hỗ trợ ngư dân và cũng để họ có chỗ nương tựa khi cần thiết. |
Nguồn: TBKTSG
TBKTSG