
Tin tức
Tiếp cận mô hình tăng trưởng 2011 – 2012 (06/07)
06/07/2011 - 21 Lượt xem
Sức mạnh của tư duy đổi mới
Thật may mắn là khi đất nước trong trạng thái khủng hoảng kinh tế-xã hội nghiêm trọng vào giữa thập niên 80 của thế kỷ XX, thì người Việt Nam đã tìm được chìa khóa để thoát ra khỏi tình trạng trì trệ, từng bước tiến đến ấm no và thịnh vượng. Đó chính là tư duy đổi mới, trước hết là tư duy kinh tế đã tạo lập cơ sở lý luận khoa học để Đảng và Nhà nước đổi mới hệ thống chính sách, cơ chế kinh tế trong nước và hội nhập quốc tế.
Cuộc khủng hoảng hệ thống XHCN thế giới vào giai đoạn này có tác động tiêu cực đến lòng tin và tâm lý của những con người đã được tuyên truyền và giáo dục về tính ưu việt của chế độ XHCN, nhưng đã tạo cơ hội cho tính độc lập, sáng tạo trong việc tìm con đường tiến lên của dân tộc ta trong một thế giới đầy cơ hội, nhưng cũng có không ít thách thức.
Đại hội VI (1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam đánh dấu bước ngoặt của sự chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang mô hình tăng trưởng theo kinh tế thị trường. Các đại hội Đảng lần thứ VII đến lần thứ XI đã kế thừa và phát triển chủ trương đổi mới toàn diện của Đại hội VI.
Tư duy đổi mới là cơ sở của hệ thống luật pháp kinh tế theo nguyên tắc thị trường: “các doanh nghiệp và mọi công dân được quyền kinh doanh những ngành nghề, lĩnh vực mà luật pháp không cấm, hoặc trong khuôn khổ giới hạn mà luật pháp cho phép” thay cho cơ chế “ xin – cho”, theo đó, “doanh nghiệp và mọi công dân chỉ được kinh doanh những gì mà các cơ quan nhà nước cho phép”, từ đó hình thành nền kinh tế đa sở hữu, không chỉ có quốc doanh, tập thể, mà còn có sự bình đẳng trước pháp luật của kinh tế tư nhân, kinh tế hỗn hợp, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Tư duy đổi mới đã “cởi trói” cho hàng triệu người dân khi họ được trả lại quyền chính đáng do pháp luật bảo vệ “làm giàu cho mình và góp phần làm giàu cho đất nước”, gắn liền với sự thay đổi thái độ xã hội đối với sự giàu có của dân tộc và mỗi con người, vinh danh những doanh nhân giỏi, những cá nhân biết vươn lên từ nghèo khó để trở thành các triệu phú, tỷ phú.
Tư duy đổi mới là cơ sở để xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa cơ chế tự điều chỉnh của thị trường, ở đó sự biến động cung- cầu hàng hóa và dịch vụ là thông tin quan trọng nhất đối với nhà sản xuất và thương mại, với cơ chế điều chỉnh của Nhà nước, tôn trọng quy luật thị trường đồng thời can thiệp khi cần thiết để bảo đảm lợi ích xã hội, khắc phục “sự méo mó” của thị trường. Vấn đề đặt ra không phải là sự lựa chọn giữa thị trường hay Nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước không những cần làm tốt chức năng quản lý kinh tế, sửa chữa thất bại của thị trường, mà còn hỗ trợ các thể chế phi thị trường để bảo đảm thực hiện có hiệu quả cả các mục tiêu kinh tế, xã hội.
Tư duy đổi mới đã giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất của các tầng lớp dân cư, kích thích ý tưởng mới, sáng tạo mới của hàng triệu công dân, vốn bị kìm nén trong nhiều thập niên, tạo nên tốc độ tăng trưởng cao hơn và cũng thu được hiệu quả lớn hơn rất nhiều so với giai đoạn trước.
Tư duy đổi mới “mở cửa để làm bạn với các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, cùng có lợi” là cách tiếp cận đúng với thế giới đang biến động không ngừng.
Về chính trị là sự thay đổi “hai cực - hai phe” trong “chiến tranh lạnh” sang thế giới “một siêu cường, đa cực” thời kỳ “hậu chiến tranh lạnh”, với vai trò của Mỹ - cường quốc số một thế giới, là thế đang lên của các nền kinh tế mới nổi, mà tiêu biểu là nhóm BRIC (Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc), là vai trò của Liên minh châu Au (EU) với 27 quốc gia cùng “sự thần kỳ” của châu Á…
Về kinh tế, toàn cầu hóa đang trong giai đoạn mà mọi cá nhân, mọi dân tộc trên các châu lục đều phụ thuộc vào sự biến động hàng ngày của tình hình thị trường hàng hóa, tiền tệ, tài chính quốc tế. Thế giới hiện đại đan xen cạnh tranh và liên kết. Hội nhập quốc tế là sự lựa chọn của từng quốc gia trong toàn cầu hóa. Vấn đề đặt ra không phải là tìm câu trả lời “có” hay “không”, mà là làm thế nào để mỗi quốc gia có thể và phát huy được lợi thế của mình trong hội nhập với thế giới.
Toàn cầu hóa còn vì lợi ích chung và các vấn đề đang đặt ra đối với sự tồn vong của gần 7 tỷ người sống trên hành tinh. Đó là việc đối phó với biến đổi khí hậu, trái đất đang nóng lên, thiên tai nhiều hơn, giới hạn tăng trưởng đã tới hạn, là sự phục hồi các dịch bệnh cũ và phát sinh các dịch bệnh mới, là sự xuất hiện “an ninh phi truyền thống” gắn với nạn khủng bố quốc tế vượt ra ngoài khuôn khổ của từng quốc gia, đang đòi hỏi sự hợp lực của các nước và các tổ chức quốc tế trong giải pháp toàn cầu để ứng cứu.
Tư duy đổi mới là sự thay đổi về “tính bất biến để ứng phó với vạn biến” trong thế giới hiện đại. Nếu trong thời kỳ “chiến tranh lạnh”, nước ta ứng xử với thế giới theo quan điểm giai cấp; quan hệ chính trị và kinh tế quốc tế của Việt Nam chủ yếu là với các nước XHCN trong khung khổ Hội đồng Tương trợ kinh tế; quan hệ với các nước khác thì dè dặt và đầy cảnh giác, làm cho thế giới bị thu nhỏ trong phạm vi 12 nước XHCN, thì hiện nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ chính trị, kinh tế, thương mại và đầu tư với khoảng 180 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới trên nguyên tắc bất biến là lợi ích dân tộc trong thế giới đa chiều, đa cực đầy biến động.
Hội nhập quốc tế cần được xem như là công cụ phục vụ cho các mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Mở rộng thương mại quốc tế và thu hút vốn đầu tư nước ngoài không thể và không phải là mục tiêu tự thân, mà là công cụ để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao, hiệu quả và bền vững,
Tư duy đổi mới không những đã làm thay đổi bộ mặt nông thôn và thành phố, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt, tình trạng đói nghèo đã được đẩy lùi, tỷ lệ hộ gia đình thuộc diện nghèo giảm rõ rệt, mà quan trọng hơn là thay đổi nếp nghĩ, cách làm của đại đa số người Việt Nam, phương thức sản xuất, phân phối và tiêu dùng của dân tộc, từng bước tiếp cận được với trình độ phát triển của các nước tiên tiến trong khu vực. Tuy vậy, trong những năm qua, nền kinh tế nước ta tăng trưởng chủ yếu dựa vào thâm dụng vốn và lao động, các yếu tố về công nghệ, năng suất lao động, năng lực quản trị đóng góp vào tăng trưởng kinh tế chưa nhiều. Tệ nạn xã hội như đầu cơ buôn lậu, trốn thuế, lậu thuế, tham nhũng, lãng phí khá phổ biến. Tình trạng bất bình đẳng xã hội gia tăng….
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra cơ hội mới cho đất nước trong cuộc ganh đua với các dân tộc trên thế giới vì phồn vinh của Tổ quốc và cuộc sống hạnh phúc của người dân; đồng thời cũng đối đầu với nhiều thách thức to lớn trong điều kiện nền kinh tế còn kém phát triển, năng lực cạnh tranh còn thấp, chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu tăng trưởng bền vững và hiệu quả.
Năm 2010 đánh dấu cột mốc quan trọng trên con đường chấn hưng kinh tế đất nước. GDP tính theo giá so sánh gấp 2 lần năm 2000 và 5 lần năm 1991. Nếu tính theo giá thực tế khoảng 101 tỷ USD, thì với GDP/người là 1.160 USD, nước ta đã vượt qua ngưỡng nhóm nước có thu nhập thấp, trở thành nước có thu nhập trung bình (thấp) trên thế giới.
Những vấn đề kinh tế trong nước và hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới đòi hỏi phải phải đổi mới nhanh hơn tư duy từ xây dựng thể chế, chính sách và cấu trúc bộ máy hành chính quốc gia cho đến nâng tầm đội ngũ công chức nhà nước, doanh nghiệp, cán bộ khoa học, kỹ thuật, công nhân lành nghề để hình thành nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng kịp thời đòi hỏi của công nghệ, dịch vụ, nghiên cứu, giáo dục, quản lý nhà nước hiện đại.
Nguồn: Đầu tư
