
Tin tức
Giá cả sáu tháng cuối năm: Nhiều yếu tố bất lợi tác động (15/07)
15/07/2011 - 16 Lượt xem
Nhận định trên của phó vụ trưởng vụ Thị trường trong nước, bộ Công thương Nguyễn Lộc An nhận được sự đồng tình của nhiều đại biểu tham dự hội thảo về giá cả tổ chức hôm qua (12.7) tại Hà Nội. Cùng với sự tăng giá đồng loạt của nhiều mặt hàng chủ chốt (điện, than, xăng dầu…), nhiều học giả cho rằng, lạm phát năm nay tăng cao là hậu quả tích tụ của sự lỏng lẻo trong chính sách tiền tệ, cũng như sự yếu kém trong quản lý, điều hành nền kinh tế nhiều năm qua.
Phân phối lĩnh vực ngân hàng chiếm hết nền kinh tế
Kịch bản quản lý, điều hành giá cả sáu tháng đầu năm nay có nhiều điểm chung với năm ngoái. Đó là hàng loạt quyết định tăng giá những mặt hàng chủ chốt được ban hành vào cuối quý 1, đầu quý 2, như tỷ giá hối đoái, giá điện, than, xăng dầu…, với mức tăng khá mạnh. “Đây chính là một trong những nguyên nhân khiến giá cả sáu tháng đầu năm đã tăng tới 13,29% tính từ tháng 12.2010, tăng 16,03% so với cùng kỳ năm ngoái”. Ông Đinh Xuân Hạng, trưởng khoa tài chính, bảo hiểm, học viện Tài chính nhận xét. Hầu hết các đại biểu tham gia buổi hội thảo, đại diện cho một số cơ quan quản lý cũng như các học giả trong lĩnh vực kinh tế, tài chính, ngân hàng đều thống nhất nhận định này.
Phó vụ trưởng vụ Chính sách thuế, bộ Tài chính Nguyễn Văn Phụng chia sẻ góc nhìn đáng chú ý, khi cho rằng, giá cả tăng mạnh có phần do những tác động “hậu WTO” đã chưa lường được hết và quản lý chặt chẽ. Chẳng hạn, khi mở cửa thị trường, nghĩa là chúng ta phải chấp nhận tình trạng các doanh nghiệp, thương lái nước ngoài vào tận vườn của người dân để thu gom nguyên liệu, tác động ít nhiều đến chi phí đầu vào. Ông Phụng đặc biệt nhấn mạnh những hạn chế trong điều hành chính sách tiền tệ. Chẳng hạn, có tình trạng một hàng hoá, sản phẩm được mua bán lòng vòng qua ba, bốn doanh nghiệp, và chứng từ mua bán này được cả bốn doanh nghiệp dùng để thế chấp vay vốn ngân hàng. “Hàng chỉ có một, nhưng cung tiền bơm ra có thể gấp bốn lần, lạm phát cũng là dễ hiểu”, ông Phụng nói.
Đáng chú ý là trong khi nhiều doanh nghiệp khốn đốn thì phần lớn các ngân hàng vẫn có lãi, thậm chí lãi cao. Mặc dù ngành ngân hàng đã mạnh tay tái cơ cấu theo hướng tăng tỷ trọng doanh thu, lợi nhuận từ khu vực dịch vụ, song trên thực tế, vẫn dồn tất cả lên vai doanh nghiệp. Lãi suất vay vốn cao ngất ngưởng đã đành, ngân hàng còn vẽ ra đủ loại phí – mà trên thực tế cũng là một dạng lãi suất trá hình – như phí quản lý dư nợ vay chẳng hạn. Nhờ quy định “mọi khoản giao dịch giá trị từ 20 triệu đồng trở lên phải qua ngân hàng mới được tính là chi phí hợp lệ”, nguồn thu của các ngân hàng tăng mạnh, song rất phi lý là phí dịch vụ này cũng tăng lên, theo ông Phụng, có doanh nghiệp đã tăng 2 – 7 lần chi phí cho dịch vụ này. “Phân phối của nền kinh tế đã chuyển hết vào lĩnh vực ngân hàng. Nếu có thể minh bạch được lĩnh vực này, kéo mặt bằng lãi suất xuống thấp, doanh nghiệp có cơ hội hoạt động hiệu quả, sẽ góp phần phòng, chống lạm phát”, ông Phụng nói.
Yếu kém trong lưu thông hàng hoá
Nhận định về diễn biến giá cả sáu tháng cuối năm, ông Nguyễn Lộc An cho rằng, bên cạnh những tác động của giá cả hàng hoá đầu vào của thế giới, thị trường trong nước cũng có những diễn biến bất lợi, như nguồn cung thực phẩm chưa thể nhanh chóng phục hồi; khả năng giá điện tiếp tục được điều chỉnh tăng để bù đắp chi phí; lãi suất vẫn ở mức cao, tỷ giá sau thời gian ổn định có thể tăng nhẹ vào cuối năm; mùa mưa bão có thể gây đứt nguồn cung hàng hoá và tăng giá cục bộ tại một số địa phương; chu kỳ tăng giá vào dịp cuối năm… Bởi vậy, ông An dự báo, CPI cả năm ở mức 17% nếu các biện pháp kiểm soát giá được thực hiện quyết liệt.
Chủ tịch hiệp hội Siêu thị Hà Nội Vũ Vinh Phú đặc biệt trăn trở với những tồn tại, yếu kém trong phân phối lưu thông, hàng hoá đi lòng vòng, chi phí bị đẩy lên cao, khiến cho “người nông dân chẳng được gì mà người tiêu dùng thì bị móc túi”. Ông Phú dẫn chứng, tháng 4, 5 vừa qua, trong khi đường tồn kho tại các nhà máy tới nửa triệu tấn, giá giao là 16.000 – 17.000 đồng/kg thì trên thị trường bán lẻ tới 24.000 – 25.000 đồng/kg và tình trạng này xảy ra với hầu hết lĩnh vực khác như sắt thép ximăng, dầu ăn, rau củ quả…
Ông Phú không tán thành chủ trương bán hàng bình ổn giá, vì thực tế hàng bình ổn nhiều khi không phục vụ đúng đối tượng cần hỗ trợ, ép giá mua, giá bán, duy trì cơ chế xin cho, do việc tham gia bình ổn giá không qua đấu thầu, màng lưới ít, không rộng khắp, bị tư thương lợi dụng chênh lệch giá của hàng bình ổn, mua vét hàng hoá, khó quản lý tiêu cực ở nội bộ đơn vị tham gia bình ổn giá…
Nguồn: SGTT
