Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Sắp xếp lại quản trị quốc gia để kiểm soát tốt đầu tư công (27/07)

27/07/2011 - 16 Lượt xem

Vai trò của Quốc hội: Về lý thuyết toàn bộ quyền lực ở nước Việt Nam thuộc về nhân dân, quyền lực ấy dù được uỷ trị cho cơ quan dân cử, song chủ nhân duy nhất của mọi quyền lực phải là nhân dân, chứ không phải là người được uỷ quyền. Về phương diện thực tiễn, với 3/4 số đại biểu là kiêm nhiệm, tức là không chuyên nghiệp và một năm chỉ dành ít ngày cho công tác dân biểu, mỗi nhiệm kỳ lại bầu người mới thiếu kinh nghiệm nghị trường, Quốc hội tốt nhất chỉ có thể là cơ quan đại diện, thực hiện chức năng giám sát Chính phủ, tức là kiềm chế Chính phủ. Muốn làm tốt chức năng đại diện, các nghị sĩ phải chịu trách nhiệm trước cử tri ở đơn vị bầu cử đã chọn ra mình. Xác lập quyền uỷ trị (mandate) bằng việc sửa luật cử và bầu (luật Bầu cử) và sửa đổi các quy định tương ứng của Hiến pháp 1992 nhằm xác định các chức năng khả thi và hợp với tổ chức Quốc hội là điều cần thiết.

 Vai trò của Chính phủ: Chính phủ là cơ quan chính chịu trách nhiệm về đường lối chính trị và đương nhiên chịu trách nhiệm đề xuất các chính sách quốc gia. Để làm được việc ấy, Chính phủ phải tự đề xuất ra các chính sách và bị kiềm chế bởi Quốc hội, vì chính sách ấy phải được nghị viện thông qua bằng các đạo luật mới có giá trị thi hành. Nói cách khác, Thủ tướng và nội các phải chịu trách nhiệm đề xuất các chính sách quốc gia. Sau khi dịch chính sách ấy thành luật, bộ máy hành chính (chấp pháp) từ cấp thứ trưởng trở xuống có nghĩa vụ thi hành. Trên thực tế điều này chưa thật rõ ràng trong Chính phủ Việt Nam, Chính phủ vẫn làm việc theo nguyên tắc tập thể, quyết định theo đa số “với những vấn đề quan trọng” (không rõ là những vấn đề nào?), theo điều 115 Hiến pháp 1992. Vai trò và trách nhiệm cá nhân của Thủ tướng về đường lối chính trị quốc gia chưa thật rõ như đã được quy định trong điều 54 Hiến pháp 1946, theo đó “Thủ tướng phải chịu trách nhiệm về con đường chính trị của nội các”. Nếu hình thành nội các và tăng quyền cho Thủ tướng, đồng thời cũng phải tăng trách nhiệm cá nhân của các vị bộ trưởng trong nội các tương tự như đã xuất hiện trong Hiến pháp 1946, theo đó mỗi sắc lệnh của Chính phủ phải được Chủ tịch Nước và một hay nhiều vị bộ trưởng tiếp ký, các vị này chịu trách nhiệm trước Quốc hội về chính sách mà ngành mình đề xuất. Quốc hội kiểm soát và phê bình Chính phủ, điều 36 Hiến pháp 1946, biểu quyết tín nhiệm đối với từng bộ trưởng và toàn thể nội các, điều 54 Hiến pháp 1946. Những quy định xưa cũ này của Hiến pháp 1946 rất đáng nghiên cứu để cải cách Chính phủ, làm cho Chính phủ trở thành một cơ quan chịu trách nhiệm đề xuất chính sách, độc lập và chịu trách nhiệm trước Quốc hội.

Hiến pháp ở Việt Nam mới được hiểu là các tuyên bố chính trị về đường lối cầm quyền của nhà nước, chứ chưa phải là văn bản ràng buộc quyền lực của nhà nước.

Giám sát lập quy của hành pháp: Một hiện tượng bất bình thường ở Việt Nam là, nếu năm 2008 Quốc hội ban hành 22 đạo luật thì Chính phủ, các bộ và UBND các cấp ban hành khoảng 2.641 văn bản quy phạm pháp luật, thêm vào đó là 1.826 công văn và tương tự công văn chứa quy phạm pháp luật, tức là một số lượng khổng lồ văn bản dưới luật gấp hơn 220 lần luật của Quốc hội. Điều này cho thấy sự yếu kém của Quốc hội trong lập pháp, đã uỷ quyền lập quy quá lớn cho hành pháp. Quốc hội đã không làm được điều cần phải làm và quyền lực của Chính phủ trong lập quy rất lớn. Muốn cải thiện tình hình này, cũng như giám sát các quyết định đầu tư công của Chính phủ, buộc phải tăng sức mạnh giám sát, tranh luận và đại diện cho Quốc hội cũng như thiết lập các cơ quan tài phán hành chính và tài phán hiến pháp nhằm tạo cho toà án quyền uy kiềm chế và giám sát các quyết định của hành pháp.

Đảng cần “hoá thân” vào Chính phủ: Trong khuôn khổ của Hiến pháp 1992, nhiều cuộc tranh luận đã diễn ra nhằm xác lập mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, xác lập khuôn khổ hoạt động cho các tổ chức chính trị, chính trị – xã hội (dự thảo luật về hội) cũng như tranh luận nhằm cải tiến quy trình ứng cử (luật Bầu cử). Vì các đường hướng cải cách chưa rõ ràng, chưa ai dám đề xuất nên xây dựng một đạo luật về hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam để làm rõ mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và xã hội, nhất là xác định rõ trách nhiệm của Đảng trước các chính sách điều hành quốc gia. Trước các quyết sách chính trị lớn, ví dụ trong đầu tư công, Đảng có vai trò quyết định lớn. Để đảm bảo trách nhiệm của đảng cầm quyền trước nhân dân, thì Đảng Cộng sản Việt Nam phải “hoá thân” vào Chính phủ. Nếu phỏng theo mô hình cộng hòa đại nghị, người đứng đầu đảng cầm quyền, tương ứng là Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam có thể nên là người đồng thời đứng đầu ngành hành pháp, chịu trách nhiệm thành lập nội các và hoạch định chính sách quốc gia. Nội các thường gồm ban lãnh đạo cao nhất của đảng cầm quyền, tương ứng với nước ta là Bộ Chính trị của Đảng. Đây là cơ quan hoạch định và chịu trách nhiệm về chính sách quốc gia, tách bạch với hành chính.

Hành pháp tách dần khỏi hành chính. Bộ máy hành chính bao gồm đội ngũ công chức từ thứ trưởng trở xuống được tuyển dụng theo chế độ tuyển lựa công chức mà không được bầu từ cử tri. (Thẩm quyền của công chức trong bộ máy hành chính phái sinh từ chức vụ của họ được gọi là chức trách, khác với thẩm quyền của đại biểu dân cử phái sinh từ lá phiếu của nhân dân, nên được gọi là sự uỷ trị).

Kiềm chế quyền lực và hiến pháp: Những điều thảo luận ở trên đòi hỏi phải thay đổi một cách thận trọng và căn bản Hiến pháp 1992. Hiến pháp ở Việt Nam mới được hiểu là các tuyên bố chính trị về đường lối cầm quyền của nhà nước, chứ chưa phải là văn bản ràng buộc quyền lực của nhà nước. Hiển nhiên những khuôn khổ chật chội đó không thể dễ chịu đối với người cầm quyền, cho nên thúc ép công quyền buộc phải lùi vào những giới hạn hiến định để bảo vệ tự do của người dân được gọi là bảo vệ hiến pháp. Cuộc thảo luận về bảo vệ hiến pháp theo tinh thần đó mới bắt đầu diễn ra khá dè dặt ở Việt Nam từ vài năm gần đây, chủ yếu giới thiệu kinh nghiệm nước ngoài. Một hướng đi khác là tìm các công cụ pháp lý có sẵn ở Việt Nam, ví dụ tăng quyền khiếu nại, tố cáo của công dân về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước theo điều 74 Hiến pháp 1992, xây dựng năng lực chuyên môn cho các toà hành chính cấp tỉnh, tăng cường năng lực của Thanh tra Chính phủ và Viện Kiểm sát nhân dân. Theo Hiến pháp 1992, điều 91, Uỷ ban thường vụ Quốc hội có thẩm quyền giải thích hiến pháp, giám sát việc thi hành hiến pháp. Trong thực tế, Uỷ ban thường vụ Quốc hội hầu như ít có cơ hội để thực hiện hai chức năng giải thích và giám sát thực hiện hiến pháp một cách có hiệu quả.

 

Quyền lập pháp và tư pháp chưa mạnh

So với quyền hành pháp, vốn có truyền thống từ một nền quan chế phong kiến lâu đời, cả hai nhánh quyền lập pháp và tư pháp đều tương đối yếu. Đặc biệt một ngành quyền lực tư pháp độc lập và mạnh so với hành pháp là điều chưa từng có trong lịch sử nước Việt Nam. Điều này được phản ánh trong các bản hiến pháp của Việt Nam. Theo Hiến pháp 1946, cơ quan tư pháp chỉ bao gồm hệ thống toà án, từ tòa án tối cao, các toà án phúc thẩm và các toà án đệ nhị cấp, tới sơ cấp. Hệ thống này nối tiếp cấu trúc toà án mới được xác lập vào cuối thời kỳ thuộc Pháp. Các viên thẩm phán đều do Chính phủ bổ nhiệm, khi xét xử, thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp, điều 63 – 69 Hiến pháp 1946. Từ Hiến pháp 1959 khái niệm cơ quan tư pháp được loại bỏ, thay bằng một chương có tên gọi “toà án nhân dân (TAND) và viện kiểm sát nhân dân (VKSND)”. Theo mô hình Hiến pháp Xô Viết, TAND và VKSND đều là các cơ quan phái sinh từ quyền lực của Quốc hội, người lãnh đạo cao nhất của hai cơ quan này được bầu từ Quốc hội và có trách nhiệm báo cáo công tác của ngành mình trước Quốc hội. Các Hiến pháp 1980 và 1992 đi theo mô hình này, chỉ có một sửa đổi nhỏ vào năm 2001 khi chức năng của VKSND được thu hẹp vào quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Vào thời điểm hiện nay, các quy định từ bổ nhiệm thẩm phán, hệ thống tổ chức, thẩm quyền của tòa án cho tới quy tắc tố tụng chưa giúp các toà án thành một ngành quyền lực độc lập. Khi tuyên án, các thẩm phán nhân danh Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam chứ chưa nhân danh quyền lực nhân dân.

Nguồn: SGTT