Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Giải bài toán bất ổn vĩ mô nhìn từ cung và cầu của nền kinh tế (12/08)

12/08/2011 - 19 Lượt xem

Hiện tại, các chính sách của Chính phủ nhấn mạnh đến ổn định kinh tế vĩ mô và đặc biệt là giảm lạm phát. Từđầu năm đến nay, chính sách tiền tệ được thắt chặt. Ngoài ra, sự tăng giá của hàng loạt những sản phẩm là chi phí đầu vào của tất cả các ngành trong nền kinh tế như điện, xăng dầu, than…cùng với lãi suất tăng cao khiến giá thành (giá của người sản xuất) của hầu hết các ngành đều tăng lên. Việc tăng giá thành không chỉ ảnh hưởng một lần (trực tiếp) mà thường lan toả sang những vòng sau khi sản phẩm của các ngành đó lại được làm đầu vào trong quá trình sản xuất.

Hơn nữa, việc tiếp cận vốn lại rất khó khăn, đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản. Hoạt động kinh doanh bất động sản có độ nhậy tương đối cao trong nền kinh tế, cao hơn mức bình quân chung của toàn nền kinh tế (nếu mức bình quân chung của nền kinh tếlà 1 thì độ nhậy của hoạt động này là 1,6). Khi hoạt động này bị ngưng trệ hoặc đóng băng sẽ dẫn đến sựngưng trệ của ngành xây dựng, lan toả tiếp đến các ngành sản xuất vật liệu xây dựng như xi măng, sắt thép, gạch ngói, sơn….

Các chính sách này đang dẫn đến sự đình đốn về phía cung, vốn chưa bao giờ là mạnh mẽ.

Trong các mức độ của nguyên nhân dẫn đến lạm phát thì nguyên nhân trực tiếp, nguyên nhân bề nổi là do lượng cung tiền lớn, và việc thắt chặt tiền tệ là chữa nguyên nhân bề nổi này. Nguyên nhân cơ bản hơn, sâu xa hơn là hiệu quả đầu tư. Khi bỏ ra 7 – 8 đồng vốn mới tạo ra được một đồng tăng lên của GDP thì việc thắt chặt tiền tệ chỉ khiến lượng vốn ít đi mà hiệu quả vẫn không được cải thiện, càng tăng thêm khó khăn cho phía cung (phía sản xuất). Việc chống lạm phát nếu không tính đến bài toán nâng hiệu quả đầu tư liệu có thành hiện thực và bền vững?

Ngoài ra, theo báo cáo mới đây của Tổng cục Thống kê, thu nhập bình quân đầu người đã loại trừ yếu tố giá tăng mỗi năm 9,3% trong khi chi tiêu bình quân đầu người tăng 14%, điều này dẫn đến hai vấn đề. Thứ nhất, mức tiết kiệm của khu vực hộ gia đình sẽ nhỏ đi . Thứhai, việc gia tăng tổng cầu cuối cùng khi mà phía cung yếu sẽ chỉ làm tăng giá.

Trong một nền kinh tế, tiết kiệm = GDP + Thu nhập từ sở hữu thuần + Thu nhập từc huyển nhượng thuần + Thuế trực thu (thu thu nhập cá nhân, thu nhập doanh nghiệp…) – Tiêu dùng của hộ gia đình – Tiêu dùng cuối cùng của Nhà nước.

Tiết kiệm là nguồn cơ bản chính để tái đầu tư, nếu không đủ thì phải đi vay và nếu thừa ra thì sẽ cho vay. Tình trạng như hiện nay ( tiết kiệm chiếm trên 20% GDP trong khi đầu tư luôn chiếm trên 40% GDP) nếu kéo dài thì việc tiếp tục đi vay là không tránh khỏi. Việc sửdụng khoản tiền đi vay không hiệu quả để làm tăng GDP tương xứng sẽ dẫn tới tiếp tục lạm phát (dù có làm nhỏ lượng vốn đầu tưhàng năm đi), nợ nần sẽ chồng chất và vòng xoáy của bất ổn vĩ mô sẽ không bao giờ chấm dứt.

Cho nên, giải pháp tổng thể phải tính cả việc tăng mức tiết kiệm. Muốn vậy, cần có sự tăng trưởng GDP đều đặn và bền vững; giảm nhập siêu; giảm tiêu dùng của cả hộ gia đình và Nhà nước; quản lý và rà soát luồng tiền ra từkhối FDI (từ chi trả sở hữu).

Nguồn: SGTT