
Tin tức
Hợp đồng EPC và lạm phát (22/9)
22/09/2011 - 20 Lượt xem
Nhập khẩu lạm phát từ EPC
Từ đầu năm 2011, Quốc hội và Chính phủ đã đưa ra những biện pháp quyết liệt nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, trong đó, vấn đề lạm phát được đề cập nhiều nhất. Nhưng Việt Nam chưa thể thoát khỏi vòng xoáy lạm phát đơn giản vì lạm phát tại Việt Nam phần nào đó lại chịu tác động mạnh của biến động kinh tế bên ngoài, trực tiếp là Trung Quốc. Liên quan đến vấn đề này, hợp đồng EPC đã được một số chuyên gia coi là mắt xích quan trọng.
Hợp đồng EPC là hợp đồng trong đó nhà thầu thực hiện toàn bộ các công việc từ thiết kế kỹ thuật tới cung ứng vật tư, thiết bị, lắp đặt, thi công công trình, chạy thử, và cuối cùng bàn giao cho chủ đầu tư theo kiểu “chìa khóa trao tay”. Kết thúc hợp đồng, chủ đầu tư chỉ việc vận hành và thu lợi nhuận.
Theo thống kê, tuy lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Trung Quốc vào Việt Nam trong 20 năm qua chỉ tương đương 1,5% tổng vốn FDI, nhưng các doanh nghiệp Trung Quốc lại chiếm lĩnh thị trường tổng thầu EPC trong các công trình trọng điểm.
Thông qua hợp đồng tổng thầu EPC, Trung Quốc đang đảm nhiệm tới 90% các công trình điện, khai khoáng, dầu khí, luyện kim, hóa chất của Việt Nam, là những công trình tối quan trọng của quốc gia. Nhiều ý kiến cho rằng, lý do các doanh nghiệp Trung Quốc hay thắng thầu trước hết là vì giá thấp, do cơ chế đấu thầu ở Việt Nam thực chất là đấu thầu về giá.
Các nhà thầu Trung Quốc thường đưa vào Việt Nam cả nguyên vật liệu, trang thiết bị và lao động phổ thông. Như vậy, vô hình trung, Việt Nam đã tạo công ăn việc làm và GDP cho Trung Quốc, làm gia tăng nhập siêu. Điều đáng quan ngại là, đa số các dự án đều chậm tiến độ, công suất thấp hơn nhiều so với cam kết trong hợp đồng, trang thiết bị thiếu đồng bộ, làm ảnh hưởng đến tuổi thọ và tăng chi phí bảo dưỡng.
Cụ thể, tháng 8 vừa qua, tập đoàn Hóa chất Việt Nam đã buộc nhà thầu Trung Quốc thi công gói thầu EPC của dự án Nhà máy Sản xuất phân bón DAP số 1 (khu kinh tế Đình Vũ, Hải Phòng) phải chấp nhận nộp phạt 6 triệu đô la Mỹ trong hợp đồng EPC trị giá hơn 172 triệu đô la Mỹ do không đạt chỉ tiêu về chất lượng sản phẩm, và định mức tiêu hao nhiên liệu cao hơn cam kết... Tuy nhiên, vấn đề dễ nhận thấy nhất là các dự án xây dựng nhà máy điện chứa đựng nhiều bất cập, phải mua điện từ Trung Quốc kéo dài.
Cụ thể là, nguồn điện phát ra không đủ công suất và không đảm bảo cung cấp điện liên tục theo kế hoạch đề ra. Để đề phòng khi mất điện, người dân phải bỏ ra khoản tiền khá lớn để mua máy phát điện, ắc qui, quạt sạc điện và đèn sạc, phần lớn là hàng Trung Quốc. Nguồn điện phập phù gây khó khăn cho sinh hoạt hàng ngày và sản xuất kinh doanh, làm tăng giá thành sản phẩm và giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Trong khi đó, hàng Trung Quốc giá rẻ luôn trực sẵn nhờ được hưởng những ưu đãi đặc biệt khi xuất sang Việt Nam.
Không chỉ hàng tiêu dùng, nguyên liệu đầu vào cho sản xuất cũng chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu hàng nhập khẩu từ Trung Quốc, làm tăng mức độ lệ thuộc của kinh tế Việt Nam vào Trung Quốc. Điều này thể hiện rõ trong thời gian qua khi lạm phát tại Trung Quốc tăng cao, gây biến động giá cả tại Việt Nam. Nhất là khi thương nhân Trung Quốc ồ ạt mua gom nông sản tại Việt Nam, dẫn đến tình trạng mất cân đối cung cầu một cách trầm trọng và hậu quả là giá cả tăng vọt, làm thất bại mọi nỗ lực chống lạm phát của Chính phủ. Với mức xuất siêu sang Việt Nam hàng tháng trên 1 tỉ đô la Mỹ, phía Trung Quốc có thừa khả năng đảo lộn thị trường nông sản Việt Nam. Bên cạnh thiệt hại về kinh tế, tình trạng lao động phổ thông Trung Quốc tràn vào theo các dự án EPC cũng đang gây ra những vấn đề xã hội phức tạp.
Giải pháp nào cho các gói thầu EPC?
Sở dĩ các doanh nghiệp Việt Nam ưu tiên sử dụng hợp đồng EPC là vì, chủ đầu tư không phải làm gì ngoài việc bỏ tiền ra “mua công trình” về vận hành và thu lãi. Phần lớn dự án EPC thuộc dự án nhóm A do các tập đoàn và tổng công ty nhà nước làm chủ đầu tư, chủ yếu do Chính phủ và các bộ phê duyệt với nguồn vốn do ngân sách nhà nước cấp dưới hình thức đầu tư công và vốn vay, nếu thua lỗ thì ban lãnh đạo và Nhà nước gánh chịu. Nỗ lực cắt giảm đầu tư công vì thế cũng bị hạn chế, thâm hụt ngân sách không có hồi kết, và lạm phát tại Việt Nam hiện nay đang đứng ở mức cao nhất trên thế giới.
Giải pháp chung chung là cắt giảm đầu tư công và áp đặt các rào cản kỹ thuật về đầu tư và thương mại quốc tế. Tuy nhiên bản chất và nguyên nhân của vấn đề nằm trong khu vực doanh nghiệp nhà nước, khu vực này còn phình to thì còn là vấn nạn quốc gia và không bao giờ khắc phục được tình trạng thâm hụt ngân sách. Trong bối cảnh kinh tế đang bị lệ thuộc trầm trọng vào Trung Quốc, không thể đưa ra những biện pháp khả thi, dù các chuyên gia bàn luận sôi nổi và các bộ, ngành cứ đổ lỗi cho nhau, chủ yếu đùn đẩy sang ngành ngân hàng.
Đã đến lúc phải nhìn nhận một cách thấu đáo về mặt trái của hợp đồng EPC và chấn chỉnh quy chế đấu thầu, nhưng không có cách nào khác là giảm mạnh tỷ trọng doanh nghiệp nhà nước, tăng nguồn vốn hỗ trợ khu vực kinh tế tư nhân. Đây là nền tảng cơ bản để tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng và tiến tới tự do hóa sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp sẽ quan tâm nhiều hơn đến phát triển sản xuất thay vì chủ yếu đi buôn như hiện nay. Điều này đòi hỏi phải có sự điều hành từ trung ương, các bộ, ngành để khắc phục lợi ích cục bộ của các doanh nghiệp.
Loại trừ được các hợp đồng EPC sẽ góp phần giảm nhập khẩu các mặt hàng nguyên liệu đầu vào, và nhập siêu từ Trung Quốc sẽ giảm xuống chỉ còn dưới 20-30% so với mức nhập siêu hiện nay. Khi đó, cơ cấu nhập khẩu sẽ chủ yếu bao gồm hàng tiêu dùng thành phẩm, như đồ điện và máy móc thông thường, máy tính, một số mặt hàng may mặc và thực phẩm. Nhập siêu giảm, sẽ hạn chế nguy cơ nhập khẩu lạm phát và giảm dần sự lệ thuộc vào Trung Quốc.
Nguồn: TBKTSG
