Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Thị trường - Doanh nghiệp - Nhà nước (12/10)

12/10/2011 - 23 Lượt xem

Trong cuộc họp bàn về giá xăng dầu ngày 20/9, đã có tranh luận khá thẳng thắn giữa một số quan chức Bộ Công thương và doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu với quan chức Bộ Tài chính. Trong khi đại diện Bộ Công thương và doanh nghiệp khẳng định kinh doanh xăng dầu bị lỗ, thì Bộ trưởng Bộ Tài chính đưa ra số liệu để chứng minh là có lãi. Chưa vội kết luận bên nào đúng, bên nào sai và cũng chẳng cần phải viện dẫn đến trình độ thi toán quốc tế của Phó vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công thương) để chứng minh anh ta có đủ năng lực tính giá xăng dầu, vì chỉ cần kế toán viên có trình độ trung cấp là có thể giải được bài toán số học đó.

Thực tế từ nhiều năm là, mỗi khi giá thế giới tăng thì giá xăng dầu trong nước tăng, phần lớn từ 1.000- 1.500 đồng/lít; nhưng khi giá thế giới giảm thì ít khi giá trong nước giảm theo, mà có giảm thì cũng chỉ 500 đồng/lít. Mức giá xăng dầu hiện nay đã được hình thành từ ngày 16/8, khi giá thế giới trên 95 USD/thùng, sau đó biến động theo chiều hướng giảm. Ngày 4/10, dầu thô WTI của Mỹ chỉ còn 75,67 USD/thùng – mức thấp nhất kể từ tháng 10/2010, giá các loại xăng dầu đã giảm mạnh tại Singapore – thị trường cung cấp chính của Việt Nam, so với ngày 16/8 giá nhập khẩu dầu DO, dầu hỏa giảm khoảng 1.000 đồng/lít.

Nguyên nhân chính là thiếu minh bạch và công khai giá xăng dầu, mặt hàng có liên quan đến hàng chục triệu người tiêu dùng đang sử dụng xe máy và xe ô tô, đến cước phí giao thông vận tải, chi phí đầu vào của nhiều loại sản phẩm.

Cũng có ý kiến nên thả nổi giá xăng dầu để các doanh nghiệp tự định giá theo nguyên tắc thị trường và cả lập luận về việc cần quan tâm đến tình hình buôn lậu qua biên giới khi giá xăng dầu nước ta thấp hơn các nước láng giềng. Thoáng qua thì có vẻ hợp lý, nhưng nếu muốn có giá thị trường cần phải lưu ý đến thực trạng gần như độc quyền của 3 doanh nghiệp lớn chiếm 90% lượng xăng dầu bán ra thị trường; một khi không có cạnh tranh thì việc giao cho các doanh nghiệp độc quyền tự định giá, chắc chắn người tiêu dùng  phải chịu thiệt. Việc chống buôn lậu qua biên giới cũng cần có giải pháp thích hợp; hàng năm nước ta tiêu thụ khoảng 13 - 14 triệu tấn xăng dầu, buôn lậu qua biên giới chiếm bao nhiêu phần nghìn mà bắt hàng chục triệu người dân phải chịu mua xăng dầu giá cao(?). Việc chống buôn lậu qua biên giới là cần thiết, nhưng trong trường hợp này phải sử dụng các công cụ hành chính và pháp luật, chẳng hạn một vài tỉnh biên giới đã cấm bán xăng dầu ban đêm để dễ kiểm soát.

Nhiều chuyên gia rất có lý khi cho rằng, Chính phủ cần có cơ chế thích ứng với kinh doanh xăng dầu, từ thực trạng phần lớn xăng dầu nước ta được nhập khẩu, giá cả thế giới, tỷ giá hối đoái biến động hàng ngày, do vậy trên cơ sở định chuẩn giá nhập khẩu, thuế, chi phí và lãi định mức, thay vì tính giá nhập khẩu trung bình hàng tháng nên chuyển thành hàng tuần, Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính) công bố giá chuẩn, các doanh nghiệp được quyết định giá bán trên cơ sở giá chuẩn và (+ -) tỷ lệ % (cận trên và cận dưới) để công bố giá bán trên thị trường, bảo đảm doanh nghiệp có mức lãi hợp lý, đồng thời bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng. Nhà nước cần tăng dần dự trữ xăng dầu quốc gia, các doanh nghiệp kinh doanh phải quan tâm đến dự báo biến động thị trường thế giới để chủ động nhập khẩu và tăng tồn kho để bảo đảm cung ứng ổn định mặt hàng quan trọng này cho thị trường trong nước.

Câu chuyện giá điện cũng được dư luận quan tâm, bởi Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) luôn muốn tăng giá điện, còn người dân thì đã dành cả chục phần trăm thu nhập hàng tháng để trả tiền điện, nhiều doanh nghiệp đang lao đao vì cơn bão lạm phát, tăng lương tối thiểu cho người lao động từ ngày 1/10 lo lắng nếu tăng giá điện thì khó duy trì được sản xuất, kinh doanh (!).

EVN thường viện dẫn giá điện một số nước cao hơn giá điện nước ta để yêu cầu tiếp tục tăng giá điện, mà không thấy được giá điện khác với xăng dầu. Trong khi giá xăng dầu là giá quốc tế thì giá điện là giá từng nước, bởi vì mỗi nước có chính sách năng lượng, cơ cấu nguồn năng lượng riêng tuỳ thuộc vào lợi thế tự nhiên, nên chi phí và giá bán điện không giống nhau, chẳng hạn Iceland chủ yếu là địa nhiệt, nên giá điện rất thấp khoảng 2 US cent/kwh, hấp dẫn các nhà đầu tư quốc tế về sản xuất nhôm. Theo GS Đinh Ngọc Lân trong cuốn “Năng lượng nguyên tử và đời sống” thì tỷ trọng điện hạt nhân trong tổng sản lượng điện ở các nước công nghiệp phát triển rất khác nhau, trong khi Pháp là 77,97%, thì Mỹ chỉ có 20,34% và Nga 15,98% (số liệu năm 2003 của IAEA).

EVN công bố con số dự báo lỗ năm 2011 là 11.669 tỷ đồng (năm 2010 lỗ 23.647 tỷ đồng) và những khoản nợ hàng ngàn tỷ đồng làm căn cứ để đòi tăng giá điện, nhằm bù lỗ và có đủ vốn đầu tư xây dựng các nhà máy điện mới. Dù rất thông cảm với tình hình kinh doanh của EVN, nhưng thử hỏi, đã có cơ quan kiểm toán độc lập nào phân tích khoản lỗ của tập đoàn kinh tế này chưa (nếu đó là con số chính xác), có bao nhiêu yếu tố cần loại trừ và tại sao, trong khi kêu thiếu vốn thì tập đoàn này vẫn dành một tỷ lệ đầu tư ngoài ngành khá lớn(?).

Câu chuyện năng lượng ở nước ta đòi hỏi phải có giải pháp tổng thể, vì không thể tiếp tục định hướng phát triển như thập niên vừa qua để sản sinh ra cơ cấu kinh tế đòi hỏi tiêu thụ năng lượng gấp 1,5 lần mức trung bình của thế giới, phải coi trọng hơn công nghệ tiết kiệm năng lượng, giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính, sử dụng các thiết bị tiết kiệm điện trong sản xuất và tiêu dùng, đẩy nhanh hơn chủ trương phá bỏ độc quyền, thực hiện cạnh tranh trong sản xuất và phân phối điện năng.

Tình trạng giá vàng trong nước trước đây biến động lệch pha với thế giới, có lúc cao hơn giá thế giới từ 2-3 triệu đồng/lượng, nhưng chỉ vài ngày sau khi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chủ trương cho phép 5 ngân hàng thương mại được tung vàng huy động bán ra thị trường, thì mức chênh giá vàng trong nước và thế giới đã giảm đáng kể, ngày 7/10 chỉ khoảng 800.000 đồng/lượïng. Đó là chủ trương đúng đắn được một số chuyên gia kinh tế đồng tình vì khắc phục được thực trạng trước đây nước ta chưa tạo cơ chế liên thông với thị trường quốc tế. Nhìn vào con số nhập khẩu vàng thì thấy rõ điều đó, trong tổng kim ngạch nhập khẩu loại kim loại quý này trong 9 tháng của năm nay là 1,5 tỷ USD, thì tháng 9 khoảng 600 triệu USD, chiếm 40%. Chừng nào mà quản lý nhà nước còn thiên về biện pháp hành chính như cấp quota nhập vàng từng chuyến mà dư luận cho rằng, số lượng vàng được nhập khẩu tùy thuộc vào mối quan hệ giữa doanh nghiệp với người cấp quota, thì chừng đó thị trường vàng nước ta vẫn còn tiềm ẩn nhiều bất ổn.

Việc NHNN đang thực hiện nhiều giải pháp khá đồng bộ liên quan đến các công cụ chủ yếu của thị trường tiền tệ là lãi suất, tín dụng và tỷ giá cũng đang có những bình luận khác nhau. Mộât vài chuyên gia kinh tế không đồng tình, vì coi đó là các giải pháp hành chính mà trước đây đã thất bại.

Tuy vậy, thực tế đã chứng minh rằng, chủ trương và giải pháp lần này của NHNN là đồng bộ, không thiên hẳn về biện pháp hành chính, mà coi trọng  biện pháp kinh tế và tâm lý; chỉ đạo thực hiện khá bài bản và nghiêm minh nên đã có kết quả bước đầu theo chiều hướng tích cực.

Việc quy định trần lãi suất tiền gửi 14% và tiền vay 17-19%, siết chặt kỷ cương đối trên thị trường tiền tệ là cần thiết trong điều kiện chỉ số tăng CPI tháng 8 và tháng 9 giảm và lạm phát kỳ vọng cũng có xu hướng giảm, khi các kênh đầu tư chứng khoán, nhà đất, vàng không ổn định thì kênh gửi tiền tiết kiệm trở nên an toàn nhất. Một số chuyên gia ngân hàng dự báo, lãi suất tiền gửi có thể giảm xuống 12% vào cuối năm, kéo theo lãi suất tiền vay cũng giảm vài điểm phần trăm. Tuy vậy, cần coi chủ trương khống chế trần lãi suất là giải pháp tình thế, một khi CPI trở lại trạng thái bình thường thì cần thay thế biện pháp thuần túy hành chính đó bằng biện pháp kinh tế.

Sự chuyển động của tình hình kinh tế- xã hội nước ta từ nay đến hết năm 2011 sẽ đưa ra kết luận thuyết phục đối với những chủ trương và giải pháp trên đây

Nguồn: Đầu tư