Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Quan điểm hệ thống với tái cấu trúc nền kinh tế (08/12)

08/12/2011 - 19 Lượt xem

Thiết kế mô hình tăng trưởng mới

Chủ trương năm 2012 và những năm tiếp theo lấy kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội làm nhiệm vụ trung tâm là đúng đắn, nhưng nếu chỉ tập trung tái cấu trúc ngân hàng, tái cấu trúc đầu tư, nhất là đầu tư công và tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước, mà chưa thiết kế mô hình tăng trưởng mới thì liệu có đạt được kết quả không (?).

Theo quan điểm hệ thống thì cần thiết kế mô hình tăng trưởng mới, dựa trên lý thuyết phát triển hiện đại và đòi hỏi của đất nước akhi đã vượt qua ngưỡng nhóm nước có thu nhập trung bình (thấp) và hội nhập sâu rộng với thế giới. Mô hình đó bao gồm cấu trúc ngành kinh tế – kỹ thuật, cấu trúc kinh tế vùng và địa phương, cấu trúc kinh tế theo hình thức sở hữu, xác định định hướng mục tiêu, thời gian và không gian thực hiện, trên cơ sở đó tái cấu trúc vốn đầu tư, bao gồm đầu tư công; tái cấu trúc từng bộ phận như công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, trong đó có ngân hàng, tài chính, tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước…

Đây là quan hệ biện chứng giữa tổng thể với bộ phận, giữa cái chung và cái riêng, giữa cấu trúc nền kinh tế với cấu trúc thành phần. Một khi chưa giải quyết vấn đề theo quan điểm hệ thống, thiết kế mô hình tăng trưởng mới theo lý thuyết phát triển hiện đại đối với nền kinh tế nước ta làm căn cứ để tái cấu trúc từng bộ phận, thì trên từng bước tiến lên sẽ khó tránh khỏi vấp váp, dẫn đến tình trạng trong khi đổi mới cấu trúc thành phần không những không có tác động tích cực, mà còn tạo thêm nhược điểm đối với cả hệ thống.

Bài học kinh nghiệm của giai đoạn trước khi có chủ trương đổi mới với việc cải cách từng bộ phận của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp như cải cách giá cả - tiền tệ - tiền lương, cải tiến quản lý kinh tế, khoán sản phẩm đến hộ và người lao động trong nông nghiệp, kế hoạch hóa “ba phần” trong công nghiệp đều không đưa lại kết quả như mong đợ. Chỉ đến khi đổi mới toàn diện theo kinh tế thị trường gắn với hội nhập quốc tế, thiết kế lại toàn bộ chính sách, thể chế, luật pháp, quản lý nhà nước, quản trị doanh nghiệp thì mới thu được thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội.

Lý thuyết tăng trưởng hiện đại

Tái cấu trúc nền kinh tế theo quan điểm hệ thống đòi hỏi phải được dẫn dắt bởi lý thuyết tăng trưởng hiện đại.

Theo lý thuyết này, mô hình tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa trên ý tưởng và tính sáng tạo, thay cho tăng trưởng dựa chủ yếu vào thâm dụng vốn, nguồn nhân lực và tài nguyên, bởi trong thế giới hiện đại, ý tưởng và sáng tạo trở thành nguồn lực vô tận, trong khi tài nguyên, đất đai, vốn đầu tư là có giới hạn. Theo đó, giáo dục là điều kiện hàng đầu để hấp thụ và sáng tạo ý tưởng mới; không có một nền giáo dục có chất lượng cao, thì khó có thể có nguồn nhân lực đầy sức sáng tạo. Du nhập công nghệ và nghiên cứu phát triển (R&D) là nhân tố quan trọng gắn bó hữu cơ với giáo dục và đào tạo. Môi trường dân chủ thực chất với hành lang pháp lý được thiết chế theo tư duy “lấy dân làm gốc” là điều kiện để khơi dậy ý tưởng mới và tính sáng tạo của các tầng lớp nhân dân, nhất là đội ngũ cán bộ quản lý, khoa học và công nghệ.

Lý thuyết tăng trưởng mới quan tâm đến vai trò của kinh tế quy mô, làm cho thị trường được mở rộng nhanh chóng và làm cho tích tụ để tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp càng có ý nghĩa. Điều đó đòi hỏi phải có sự lựa chọn trên cơ sở lợi ích dân tộc để tập trung phát triển một số ngành kinh tế mà nước ta có lợi thế cạnh tranh trên thị trường trong nước và thị trường thế giới, không thể và không nên phát triển tràn lan, nhất là theo phong trào, bởi vì kích cỡ của từng ngành kinh tế càng đủ lớn thì năng lực cạnh tranh càng gia tăng, càng hấp dẫn đối với các nhà đầu tư và nhà phân phối. Hầu hết sự khác biệt trong tốc độ tăng trưởng toàn diện được giải thích bằng hiệu suất khác nhau giữa các ngành công nghiệp. “Nếu không có kinh tế quy mô, các nước có thu nhập trung bình Đông Á sẽ gặp phải trở ngại lớn trong việc giữ tốc độ tăng trưởng ấn tượng của họ” (Đông Á phục hưng, Nxb Văn hóa thông tin, tr.21).

Lý thuyết tăng trưởng mới cho rằng, các nước có thu nhập trung bình phải trải qua ba giai đoạn phát triển: thứ nhất là giảm dần đa dạng hóa sản phẩm, tăng dần chuyên nghiệp hóa sản phẩm và nguồn nhân lực; thứ hai là đầu tư sẽ kém quan trọng hơn là tính sáng tạo và thứ ba là giáo dục chuyển từ trang bị cho người lao động kỹ năng để có thể sử dụng công nghệ mới sang tạo ra ý tưởng sáng tạo và sản phẩm mới.

Mô hình tăng trưởng 2011 - 2020

Theo quan điểm hệ thống và lý thuyết tăng trưởng hiện đại, mô hình tăng trưởng mới của nước ta trong giai đoạn 2011- 2020 cần lưu ý một số vấn đề sau đây:

Chính sách kinh tế vĩ mô cần được đổi mới có hệ thống, theo định hướng của mô hình tăng trưởng dựa trên ý tưởng và sáng tạo, gia tăng tỷ trọng vốn đầu tư cho nguồn nhân lực, thiết lập các cơ sở hạ tầng kỹ thuật hiện đại, phù hợp với nhu cầu phát triển của các ngành kinh tế chuyên môn hóa có giá trị gia tăng cao, tạo ra năng lực cạnh tranh của sản phẩm, của quốc gia trên thị trường thế giới. Các chính sách đầu tư, thuế, tín dụng, lãi suất, tỷ giá phải được thay đổi cơ bản để bảo đảm tính hệ thống, công khai, minh bạch, dễ dự đoán.

Chính sách khoa học và công nghệ cần được đổi mới nhanh hơn để vừa du nhập và sử dụng có hiệu quả công nghệ nước ngoài trong việc phát triển sản xuất, kinh doanh, vừa coi trọng hoạt động R&D, gắn với  kinh doanh của các doanh nghiệp để mang lại lợi ích kinh tế - xã hội cao hơn.

Quyền sở hữu trí tuệ cần được quan tâm hơn vì các ý tưởng và sáng tạo trở thành nguồn vốn quan trọng nhất thay thế đất đai, năng lượng và tài nguyên. (khoảng 3/4 giá trị các công ty mua bán tại Mỹ có nguồn gốc từ các tài sản vô hình gắn với quyền sở hữu trí tuệ).

Hoàn thiện thị trường, nhất là thị trường vốn, tiền tệ, thị trường khoa học và công nghệ để các hoạt động đầu tư, kinh doanh, nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ có điều kiện thuận lợi để phát triển. Tái cấu trúc ngân hàng cần được đặt trong tổng thể mô hình tăng trưởng mới và định hướng hoàn thiện thị trường vốn, tiền tệ thì mới góp phần phục vụ và thúc đẩy quá trình tái cấu trúc nền kinh tế.

Các chỉ tiêu kinh tế phải được đổi mới theo yêu cầu của mô hình tăng trưởng dựa trên ý tưởng và sáng tạo. GDP là chỉ tiêu tổng hợp của nền kinh tế, nhưng chưa phản ánh đầy đủ chất lượng tăng trưởng, vì vậy, phải có hệ thống chỉ tiêu chất lượng như năng suất lao động tổng hợp, giá trị gia tăng, chỉ tiêu về vốn, con người, hiệu suất đa nhân tố (MFP) để chỉ tăng trưởng MFP/năm của từng ngành công nghiệp, chỉ tiêu năng lực cạnh tranh của sản phẩm, của địa phương, của quốc gia…

Quản lý kinh tế của nhà nước có tầm quan trọng lớn lao trong việc đổi mới mô hình tăng trưởng. Trong thời đại ngày nay, khi thị trường đã thâm nhập sâu vào đời sống của con người, tình cảm, nhận thức của cá nhân, cũng như sự phân bố nguồn lực và các lợi ích, muốn trở nên hùng mạnh thì nước ta cần có thị trường phát triển với các doanh nghiệp ngày càng đủ sức vươn ra khu vực và thế giới, được quản lý bằng nhà nước có hiệu năng. Tuy vậy, thực tế ở nhiều nước Đông Á đã chỉ ra rằng, quy mô của chính phủ trong nền kinh tế có thể kìm hãm tăng trưởng một khi nó trở nên quá lớn. Vấn đề tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước, đầu tư công cần được đặt trong tổng thể quan hệ giữa nhà nước với thị trường theo mô hình tăng trưởng dựa trên ý tưởng và sáng tạo thì mới giải được bài toán kinh điển này ở nước ta.

Ngoài ra, mô hình tăng trưởng mới cũng cần quan tâm đến các vấn đề xã hội, sự chênh lệch thu nhập và địa vị xã hội của các nhóm dân cư, giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng trong nước, nhất là các thành phố lớn có thu nhập cao với vùng sâu, vùng xa đang còn nghèo, các chính sách xã hội đối với nhóm dân cư có hoàn cảnh đặc biệt, những vùng chịu ảnh hưởng thường xuyên do biến đổi khí hậu.

Nhìn từ bài học Vinashin

Câu chuyện tái cấu trúc Vinashin trong gần hai năm vừa qua càng làm tăng tầm quan trọng của quan điểm hệ thống và phương thức hành động đối với tái cấu trúc nền kinh tế nước ta hiện nay.

Vinashin đã để lại hậu quả nghiêm trọng đối với đất nước. Đáng ra phải xem tái cấu trúc doanh nghiệp này như dập tắt một đám cháy, cần có chủ trương và giải pháp đồng bộ, mạnh mẽ, kịp thời để khắc phục có hiệu quả trong một thời gian nhất định, thì lại đề ra các mục tiêu quá lạc quan như chỉ sau vài ba năm Vinashin sẽ kinh doanh có lãi, được điều hành bởi một tổ chức gồm những quan chức nhà nước vốn bị chi phối thời gian vào công việc hàng ngày, nên ngoài việc buộc một số tập đoàn kinh tế nhà nước khác “chia lửa” với Vinashin đến mức không ít tập đoàn lâm vào tình trạng thua lỗ trong năm 2010 và 2011, thì cho đến nay không giải quyết được vấn đề, Vinashin lại xin giảm thuế, không có tiền trả nợ.

Trong khi ở Mỹ, năm 2009, hãng xe ô tô nổi tiếng General Motor (GM) nộp đơn phá sản, buộc chính phủ nước này phải can thiệp bằng cách lập nhóm tư vấn đặc biệt gồm những chuyên gia giỏi, nên chỉ vài tháng đã đề ra được các giải pháp đồng bộ để sửa chữa các khiếm khuyết, đổi mới kinh doanh, công nghệ và quản lý của GM. Sau 6 tháng, hãng này đã thoát khỏi tình trạng phá sản, không những khôi phục mà còn phát triển được sản xuất và kinh doanh có lãi.

Tóm lại, từ tư duy đến hành động trong việc tái cấu trúc nền kinh tế cần được tiếp cận theo quan điểm hệ thống, được điều hành bằng các giải pháp đồng bộ có sự phân công và hợp tác theo chiều dọc và chiều ngang, từ trung ương đến địa phương, dưới sự chỉ huy của bộ máy có đủ thẩm quyền và đủ năng lực gồm những nhà quản lý, chuyên gia giỏi để thiết kế chương trình hành động như đã từng được thực hiện trong quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sau khi có Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng, tháng 12/1986.

Nguồn: Đầu tư