
Tin tức
Định hướng lại cơ cấu ngành, vùng (26/12)
26/12/2011 - 27 Lượt xem
Bài viết này chỉ đề cập đến một khía cạnh của vấn đề tái cơ cấu kinh tế vốn đang là công việc trọng tâm của Chính phủ, các nhà hoạch định chính sách, chuyên gia... đó là định hướng cơ cấu ngành và vùng.
Báo cáo cạnh tranh công nghiệp Việt Nam 2011 mới được công bố đã cho thấy tính dễ tổn thương của các ngành công nghiệp nước ta. Vậy mà, từ trước tới nay, trong hầu hết các định hướng phát triển của các tỉnh, thành phố đều luôn đề cao thứ nhất là khu vực công nghiệp, tiếp đến là khu vực dịch vụ và cuối cùng mới là nông - lâm nghiệp - thủy sản. Đây là một chính sách phát triển không hoàn toàn đúng cho tất cả các vùng (tỉnh).
Không phải một tỉnh, thành phố nào cũng có thế phát triển công nghiệp - dịch vụ, mà bỏ qua thế mạnh về nông lâm nghiệp và thủy sản. Xét về quá trình sản xuất, đầu ra của khu vực nông nghiệp có thể là đầu vào của các ngành công nghiệp chế biến sản phẩm nông nghiệp, nếu muốn tập trung vào công nghiệp. Trong khi đó, ngành công nghiệp của Việt Nam cơ bản là gia công - đây chính là một trong nhưng nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhập siêu cao và kéo dài; xuất khẩu của khu vực công nghiệp thực chất là xuất khẩu sức lao động và năng lượng giá rẻ. Hơn nữa, nếu bỏ thế mạnh của một tỉnh - thành phố hay của một vùng kinh tế, tức là chúng ta đang tự đánh mất lợi thế cạnh tranh. “Ví như trong một cơ thể, không thể bắt chân làm công việc của tay, hay mắt lại đi làm việc của tai được”.
![]() |
Hình 1. |
Trong giai đoạn 2000-2010, với chính sách tập trung nhiều vào khu vực công nghiệp - xây dựng, không chú trọng vào khu vực nông lâm nghiệp, dẫn đến đóng góp của khu vực nông lâm nghiệp vào tăng trưởng GDP ngày càng giảm. Tuy khu vực công nghiệp - xây dựng đóng góp nhiều vào GDP nhưng tỷ lệ giá trị tăng thêm của khu vực này rất thấp và ngày càng giảm dần. Như vậy có thể thấy khu vực này đóng góp vào GDP cao là do lượng đầu tư rất lớn, chưa kể giá trị của đất đai. Vào những năm 2000-2005, 1 đồng giá trị sản xuất sẽ tạo ra hơn 0,3 đồng giá trị gia tăng, nhưng từ năm 2006 đến nay chỉ còn tạo ra 0,2 đồng giá trị gia tăng. Trong 10 năm, tỷ lệ giá trị gia tăng trong giá trị sản xuất mất hơn 10 điểm phần trăm, điều này phần nào cho thấy mức độ gia công rất lớn trong nhóm ngành này
Năm 2007, khi Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), tình trạng nhập siêu đã trở nên rất nghiêm trọng. Vấn đề đặt ra là nhu cầu nhập khẩu lại chủ yếu phục vụ sản xuất trong nước (hơn 90%), còn nhu cầu tiêu dùng cuối cùng hàng nhập khẩu chỉ chiếm khoảng 10% trong tổng số nhập khẩu.
Một vấn đề cần lưu ý nữa là hiệu quả sản xuất của các nhóm ngành công nghiệp trong nước ngày càng yếu kém, biểu thị ở tỷ lệ chi phí trung gian trong giá trị sản xuất tăng lên đáng kể trong giai đoạn 2000-2009. Kể cả những sản phẩm của nhóm ngành công nghiệp mang mác nhãn sản xuất trong nước thì thực chất cũng là gia công mà thôi. Như vậy việc định hướng lại các ngành thực chất là một việc quan trọng khi thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế. Về lâu dài Việt Nam không thể cứ mãi là một nước gia công cấp thấp. Thử nghĩ xem nếu những định hướng của các tỉnh đến năm 2020 được thực hiện, nông nghiệp chỉ còn vài phần trăm GDP trong khi phát triển công nghiệp vẫn cơ bản là các khu công nghiệp, khu chế xuất với hàm lượng gia công lớn như hiện nay thì điều gì sẽ xảy ra? Định hướng phát triển của các tỉnh như hiện nay thực sự là một điều nguy hiểm, bởi khu vực nông nghiệp luôn là trụ đỡ vững chắc cho cả nền kinh tế vượt qua biết bao khó khăn trong những năm vừa qua.
Để xác định ngành trọng điểm (mũi nhọn) theo chúng tôi cần xác định những ngành (hoặc nhóm ngành) đồng thời thỏa mãn những điều kiện như có chỉ số lan tỏa cao đến sản xuất trong nước, kích thích nhập khẩu thấp, có nhu cầu năng lượng thấp và ít thải ra môi trường.
Với kết quả tính toán của nhóm nghiên cứu, có thể thấy là nhóm ngành nông nghiệp và chế biến lương thực thực phẩm có chỉ số lan tỏa về kinh tế tốt (lớn hơn 1), mà lại không kích thích nhập khẩu cao (nhỏ hơn 1). Còn đối với nhóm ngành công nghiệp như chế biến hàng tiêu dùng, chế biến nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, nếu có tập trung phát triển thì cũng lại càng phải nhập khẩu nhiều. Điều này là hoàn toàn không tốt.
Đối với vùng cần có một bảng cân đối liên vùng nhằm xác định trong mỗi vùng cần chú trọng vào những nhóm ngành nào để khổng chỉ lan tỏa kích thích sản xuất trong nội bộ vùng mà còn kích thích ra các vùng khác của đất nước. Loại mô hình này, hiện nay Việt Nam chưa có (về mặt chính thức), ngoại trừ một số nhóm có lập thử nghiệm mang mục đích nghiên cứu.
Để có thể tái cơ cấu nền kinh tế, các nhà hoạch định chính sách nên dựa vào các mô hình kinh tế để có thể chỉ ra đâu là ngành kinh tế trọng điểm, phát triển vùng kết hợp với phát triển ngành kinh tế trọng điểm để tận dụng lợi thế so sánh của vùng đó, đồng thời kích thích những ngành khác, những vùng khác cùng phát triển.
Nguồn: TBKTSG
