
Tin tức
Gia nhập WTO: Năm năm ra biển lớn (30/3)
30/03/2012 - 15 Lượt xem
Những thành công bước đầu
Kể từ khi trở thành thành viên chính thức của WTO, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam luôn ở mức cao, bình quân 5 năm 2007 - 2011 đạt 7%/năm. Tổng số vốn đầu tư toàn xã hội gấp 2,5 lần so với giai đoạn 2001 - 2005, đạt 42,9% GDP. Quy mô GDP năm 2011 tính theo giá thực tế đạt 119 tỷ USD, gấp 3,3 lần so với năm 2000, GDP bình quân theo đầu người đạt 1.300 USD... Đây là những kết quả đáng khích lệ trong những năm đầu gia nhập WTO, là "bàn đạp” để kinh tế Việt Nam trỗi dậy, trở thành nền kinh tế mạnh trong khu vực.
Năm năm tham gia WTO, các hoạt động kinh tế đối ngoại là lĩnh vực đạt được những bước phát triển mạnh mẽ nhất. Độ mở của nền kinh tế Việt Nam ngày càng rộng, với tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu hàng năm gấp khoảng 1,5 lần GDP thông qua sự "bùng nổ" về xuất khẩu. Theo số liệu của Bộ Công Thương, tốc độ tăng của xuất khẩu Việt Nam trung bình trong 5 năm ở mức 19,52%/năm. Đáng chú ý, dù kinh tế đất nước gặp nhiều khó khăn nhưng trong năm 2010 xuất khẩu vẫn đạt 72,2 tỷ USD (tăng 26,4%) và năm 2011 tăng lên 96,3 tỷ USD (tăng 33%). Bên cạnh đó, thị trường thương mại được mở rộng, đến năm 2010 đã có 19 thị trường Việt Nam xuất khẩu đạt từ 1 tỷ USD trở lên, trong đó đầu bảng là Mỹ, đạt 14, 2 tỷ USD, tiếp đến là Nhật Bản và Trung Quốc...
Tăng trưởng trong lĩnh vực xuất khẩu đã thúc đẩy các lĩnh vực dịch vụ phân phối, bán lẻ phát triển mạnh. Nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực đã hình thành và khẳng định tên tuổi trên thị trường quốc tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng là lĩnh vực ghi nhận những thành tựu lớn. Sau 5 năm gia nhập WTO, Việt Nam đã thu hút mạnh mẽ FDI nhờ có môi trường ổn định, minh bạch. Nếu như năm 2006, vốn FDI đăng ký đạt trên 10 tỷ USD thì tới năm 2008 đã tăng lên 64 tỷ USD, năm 2010 và năm 2011 mức thu hút có giảm hơn chủ yếu do tác động chung của khủng hoảng kinh tế toàn cầu với mức 18 tỷ USD năm 2010 và 15 tỷ USD trong năm 2011. Cùng với FDI, viện trợ phát triển chính thức (ODA) cũng đạt tăng trưởng cao với mức giải ngân tăng nhanh.
Lĩnh vực nông nghiệp của chúng ta sau khi gia nhập WTO đã có bước phát triển bền vững hơn. Việt Nam trở thành quốc gia xuất khẩu gạo và cà phê đứng hàng thứ hai thế giới; xuất khẩu hạt tiêu, hạt điều đứng hàng thứ nhất thế giới... Nông nghiệp Việt Nam đã trở thành điểm sáng trong Diễn đàn kinh tế thế giới ở Davos (Thuỵ Sĩ) vừa qua. Gia nhập WTO cũng mang lại cho các doanh nghiệp Việt Nam nhiều cơ hội tiếp cận những công nghệ mới, kỹ năng quản lý tiên tiến, tạo động lực nâng cao sức cạnh tranh.
Vẫn còn nhiều chướng ngại
Bên cạnh những thành công, thời gian 5 năm tham gia WTO cũng đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi phải được quan tâm giải quyết. Một trong những thách thức mà Việt Nam phải đối mặt là sự cạnh tranh diễn ra gay gắt hơn, trên bình diện sâu rộng hơn. Năng lực cạnh tranh của hàng hóa nước ta ở cả 3 cấp quốc gia, ngành hàng, doanh nghiệp vẫn còn hạn chế. Việt Nam bị sức ép cạnh tranh không chỉ ở thị trường bên ngoài mà ngay cả trên thị trường trong nước. Chính vì khả năng cạnh tranh hạn chế nên Việt Nam chưa có nhiều thương hiệu đạt được trình độ quốc tế, ngoài một mặt hàng nông sản xuất khẩu có vị thế dẫn đầu thế giới là hồ tiêu, sau đó là gạo và cà phê. Đó là do hiện nay hầu hết thiết bị máy móc và nguyên vật liệu của chúng ta vẫn phải nhập khẩu; chưa sáng tạo được mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm; cách làm vẫn rất thủ công, lực lượng lao động chưa được đào tạo chuyên sâu… Tất cả những yếu tố này khiến cho giá trị gia tăng của sản phẩm công nghiệp và hàng xuất khẩu của chúng ta không cao.
Ngoài ra, theo ý kiến của các chuyên gia, trở ngại tiếp theo sau 5 năm gia nhập WTO là những tồn tại ở khâu thể chế. Việc cải cách thể chế của Việt Nam theo hướng tự do hóa thương mại và đầu tư vẫn chưa được thúc đẩy hiệu quả, thể hiện ở chỗ thiếu tính hệ thống, thiếu minh bạch và thiếu ổn định. Chất lượng khung pháp lý và quy định ở Việt Nam còn thấp, dẫn tới các cách hiểu và áp dụng khác nhau. Giáo sư Claudio Dordi, chuyên gia trưởng Mutrap III (Dự án hỗ trợ thương mại đa biên), cho biết: theo các đánh giá xếp hạng của một số tổ chức thì vấn đề thể chế của Việt Nam đang được chấm điểm thấp và ít có sự cải thiện. Chính sự yếu kém của thể chế đã không hỗ trợ tốt cho các doanh nghiệp cạnh tranh trong quá trình hội nhập. Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan khẳng định, “không có môi trường cạnh tranh thì không thể nâng cao được năng lực cạnh tranh. Cơ chế pháp luật nếu không cải tiến, doanh nghiệp sẽ khó cạnh tranh được”.
Ngoài khó khăn về thể chế, đội ngũ cán bộ quản lý vĩ mô, quản trị sản xuất, kinh doanh và thực hành trong nhiều lĩnh vực, nhiều địa phương còn bất cập so với yêu cầu trình độ khu vực và quốc tế. Điều này thể hiện ở khả năng nhận biết các nguy cơ liên quan đến những các rào cản và sự lúng túng khi triển khai những biện pháp để hóa giải các rào cản; mở cửa thị trường trong nước nhưng chưa thiết lập hàng rào kỹ thuật ngăn chặn sự thâm nhập những yêu tố tiêu cực từ bên ngoài... Bên cạnh đó, các vấn đề mới nảy sinh trong quá trình hội nhập như sự phân hóa, chênh lệch khoảng cách giàu, nghèo; vấn đề bảo vệ môi trường; bảo đảm an ninh quốc gia; giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của dân tộc... vẫn còn tồn tại. Đây là những khó khăn, thách thức không nhỏ trong quá trình hội nhập WTO thời gian tới. Để có thể tận dụng tối đa những lợi ích từ việc gia nhập WTO thì chúng ta còn nhiều việc phải làm.
Theo các chuyên gia kinh tế, khoảng thời gian 5 năm chưa đủ dài để có thể đánh giá và nhìn nhận đầy đủ tác động của việc gia nhập WTO đối với nền kinh tế Việt Nam, song cũng đủ để cho chúng ta nhận rõ được những điểm hạn chế của nền kinh tế để có thể hoàn thiện hơn trong tiến trình hội nhập. Đó là phải nâng cao được năng lực cạnh tranh của Nhà nước, doanh nghiệp và sản phẩm bằng các biện pháp thiết thực; tranh thủ công nghệ tiên tiến, bên cạnh đó phải chú trọng phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hội nhập và rà soát khả năng cạnh tranh quốc gia. Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng cần phải được thực hiện, đòi hỏi phải có sự chung tay của Nhà nước và doanh nghiệp. Ngoài ra, Việt Nam cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, đi đôi với việc cải cách hành chính; tiếp tục hoàn thiện các yếu tố kinh tế thị trường, các loại hình thị trường, để được công nhận có nền kinh tế thị trường trước thời hạn 31/12/2018; cũng cần đầu tư mạnh mẽ cho giáo dục đào tạo; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tạo sự đồng thuận, chủ động thực hiện các chính sách theo lộ trình hội nhập kinh tế giai đoạn mới.
Nguồn: Tầm nhìn
