Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Thực trạng pháp luật và quản lý doanh nghiệp nhà nước (05/4)

05/04/2012 - 30 Lượt xem

Ông Huệ nhấn mạnh, trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với sự tham gia của các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau thì việc nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là vấn đề đặc biệt quan trọng và vị vậy đã và đang được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Để thực hiện được yêu cầu này, Nhà nước ta đã thực hiện nhiều biện pháp mà trước hết là chủ trương đổi mới tổ chức, sắp xếp lại các DNNN.

Qua nghiên cứu, có thể thấy khung pháp luật điều chỉnh doanh nghiệp nhà nước còn một số hạn chế sau đây:

Thứ nhất, các vấn đề phát sinh trong việc tổ chức, hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến việc thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp còn chịu sự điều chỉnh của các văn bản dưới luật.

Thứ hai, pháp luật về doanh nghiệp nhà nước không còn duy trì được tính đồng bộ và tính hệ thống. Kể từ ngày 01/7/2010, các công ty nhà nước hoạt động theo Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 đã phải chuyển đổi sang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp năm 2005. Hậu quả là nhiều quy định trong các văn bản pháp luật nêu trên đã không còn được áp dụng nữa vì không còn đối tượng điều chỉnh là công ty nhà nước.

Thứ ba, nhiều quy định điều chỉnh việc thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp còn sơ sài, chưa đầy đủ, đặc biệt là đối với các tổng công ty và tập đoàn kinh tế. Hậu quả là, nhiều vấn đề phát sinh trong hoạt động của các DNNN này không có pháp luật để điều chỉnh hoặc điều chỉnh không đến nơi đến chốn. 

Việc quản lý, giám sát đối với tập đoàn kinh tế nhà nước cũng rơi vào tình trạng tương tự. Cho đến nay mới có 2 văn bản điều chỉnh các vấn đề liên quan trực tiếp đến quản lý, giám sát việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước là Nghị định 101/2009/NĐ-CP ngày 05/11/2009 của Chính phủ về thí điểm thành lập, tổ chức, hoạt động và quản lý tập đoàn kinh tế nhà nước và Quyết định 224/2006/QĐ-TTg ngày 26/10/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế giám sát và đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. 

Thứ tư, nội dung của nhiều quy định còn chưa hợp lý. Chẳng hạn, Nghị định 07/1999/NĐ-CP ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở DNNN và công khai tài chính ở DNNN và Nghị định 87/2007/NĐ-CP về Quy chế thực hiện dân chủ ở công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn đều giới hạn việc công khai tài chính (kết quả kiểm toán và báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp) cho các đối tượng trong nội bộ doanh nghiệp và như vậy, các bên có liên quan ở bên ngoài doanh nghiệp không thể tiếp cận các thông tin này để thực hiện quyền giám sát của mình. Rõ ràng đây là một quy định bất hợp lý, cần phải được khắc phục.
Quy định về việc thành lập mới, tổ chức lại, giải thể các chi nhánh, văn phòng đại diện của công ty mẹ ở trong nước và ở nước ngoài phải được chủ sở hữu chấp thuận như quy định tại Nghị định số 101/2009/NĐ-CP theo chúng tôi là không hợp lý vì hạn chế tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.

Thứ năm, vẫn còn không ít quy định có nội dung không thống nhất, mâu thuẫn với nhau. Ví dụ, Luật Doanh nghiệp năm 2005 và Nghị định số 25/2005/NĐ-CP quy định nguyên tắc Nhà nước thực hiện thống nhất và tập trung các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu về vốn và mỗi công ty TNHH một thành viên chỉ có một tổ chức được phân công, phân cấp thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước. Trong thực tế, Điều lệ của các công ty mẹ (phê duyệt theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ) và Nghị định 101/2009/NĐ-CP lại quy định quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước được phân công, phân cấp cho nhiều chủ thể thực hiện (Thủ tướng Chính phủ, bộ chức năng, bộ quản lý ngành,...). 

Tại đây ông Huệ cho rằng, các doanh nghiệp nhà nước đang là lực lượng nắm vai trò chủ lực trong nền kinh tế nước ta. Mặc dù còn nhiều hạn chế trong hoạt động sản xuất – kinh doanh nhưng do tầm quan trọng mà Đảng và Nhà nước ta vẫn tiếp tục dành cho các doanh nghiệp này một sự quan tâm đặc biệt, nhất là trong lĩnh vực xây dựng khung khổ pháp lý. Việc nắm bắt và triển khai một cách có hiệu quả các kiến nghị nêu trên sẽ góp phần không nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, góp phần thực hiện thành công các nhiệm vụ kinh tế - xã hội mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra.

Tại đây, ông Cao Sỹ Kiêm, chuyên gia kinh tế cao cấp cũng nhấn mạnh 3 vấn đề cần quan tâm của doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn khó khăn hiện nay.

Thứ nhất: Cần phải đánh giá đúng thực trạng các Tập đoàn. Tổng công ty hiện nay. Việc đánh giá không phải chỉ của các chuyên gia mà phải có sự đánh giá từ Trung ương.

Thứ 2: Phải xây dựng và hoàn thiện các mô hình Tập đoàn, Tổng công ty hiện nay bằng các mục tiêu đặt ra trong từng giai đoạn tiếp theo.

Cuối cùng, phải xây dựng cơ chế pháp lý để quản lý các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước hiện nay.

Nguồn: Tầm nhìn