
Tin tức
Kinh tế vĩ mô VN: Tăng trưởng chậm, người đồng hành không được chào đón (04/5)
04/05/2012 - 11 Lượt xem
Khó cân bằng các chỉ tiêu kinh tế cùng lúc
Bản báo cáo nhận xét, Việt Nam đang đứng ở giao lộ. Trong gần mười năm trở lại đây, cũng giống các nền kinh tế tương tự trong khu vực, tăng trưởng ở Việt Nam được dẫn dắt bằng tín dụng. Sự tăng trưởng đó đã giúp nền kinh tế tăng trưởng trung bình 7%/năm trong vòng một thập kỷ qua. Tăng trưởng, đặc biệt là dưới sự dẫn dắt của tín dụng, thường đi kèm với một vấn đề nhức nhối khác: áp lực lạm phát nóng lên. Để tránh được cặp đôi tăng trưởng nhanh và lạm phát leo thang, chúng tôi tin rằng cải tổ cơ cấu là cần thiết để nâng cao hiệu quả đầu tư, từ đó nâng cao năng suất lao động. Đối với Việt Nam, điều này đặc biệt quan trọng khi dân số và thu nhập tăng làm cho tổng cầu tăng theo. Nếu không cải tổ theo con đường ấy, Việt Nam sẽ rơi vào vòng xoáy nguy hiểm: phải mở rộng tín dụng để hỗ trợ các doanh nghiệp kém hiệu quả trong bối cảnh áp lực lạm phát ngày một nóng bỏng.
Năm ngoái, để ứng phó với mức lạm phát cao, Chính phủ đã thực thi các biện pháp thắt chặt tiền tệ để giảm cầu. Tăng trưởng tín dụng giảm từ 27,7% năm 2010 xuống còn 10,9% năm 2011. Trong khi NHNN đảo ngược quá trình thắt chặt vào cuối năm 2011 và sau đó hạ các lãi suất chính sách vào đầu năm 2012, tổng lượng vốn vay đã hạ 1,9% từ đầu năm tới hết tháng 3, cho thấy nhu cầu trong nước thấp hơn nhiều so với mong đợi. Với tín dụng thu hẹp trong quý đầu tiên và tăng trưởng kinh tế bị giảm tốc đột ngột từ 6,1% vào quý 4/2011 xuống 4,1% vào quý 1/2012, NHNN có lẽ sẽ hạ tiếp các lãi suất chính sách trong các quý tiếp theo.
Sự suy giảm của tổng cầu mang lại hai hiệu ứng tích cực: 1) lạm phát giảm đi đáng kể và có khả năng đạt một con số vào tháng 5; và 2) cầu nhập khẩu giảm đáng kể, do đó cán cân thương mại và sự ổn định của Việt Nam đồng (VND) sẽ được cải thiện. Ngay cả xuất khẩu, vốn dĩ rất sôi động, cũng sẽ giảm đi do VND trở nên kém cạnh tranh cũng như cầu ngoài nước đang giảm sút. Nhìn tổng thể, xuất khẩu ròng sẽ tăng do nhập khẩu giảm, nhưng nhu cầu tiêu dùng trong nước sẽ rất thấp trong năm 2012. Vì thế, HSBC điều chỉnh dự đoán về tăng trưởng của mình cho năm 2012 từ 5,7% xuống 5,1%.

Lương thực là nhóm hàng có chỉ số giá giảm mạnh nhất, từ 17,8% vào tháng 3 xuống còn 11,9% vào tháng 4 so với cùng kỳ năm ngoái. Trong khi lương thực là nhóm hàng chiếm tỷ trọng gần 40% trong rổ CPI, lượng cung ứng dồi dào trong thời điểm nhu cầu tiêu thụ thấp đã khiến chỉ số lạm phát cho nhóm hàng này giảm đáng kể. Chỉ số lạm phát cơ bản, không tính lương thực và năng lượng, mặc dù giảm nhưng duy trì khá ổn định ở mức 10,3% trong tháng 4 so với cùng kỳ năm ngoái (tháng 3 là 12%).
Lạm phát giảm xuống, như trong Biểu đồ 1, đã tạo điều kiện cho NHNN giảm lãi suất trong quý 1/2012. Các lãi suất chính sách chủ đạo đã được cắt giảm 2% trong vòng một tháng (lần giảm đầu tiên vào tháng 3 và lần thứ 2 vào tháng 4) để thúc đẩy tiêu dùng trong nước.
Không có nhu cầu tiêu dùng

Tăng trưởng chậm của nền kinh tế phản ánh tình trạng tín dụng bị thắt chặt. Không có gì đáng ngạc nhiên khi các doanh nghiệp và ngành sản xuất gặp khó khăn nếu nhìn dư nợ cho vay đã suy giảm thực tế trong năm 2011 và thu hẹp lại trong quý 1/2012. Đặc biệt, bất động sản và xây dựng là hai lĩnh vực suy giảm nhiều nhất, vì lãi suất cho vay cao đã làm sụt giảm nhu cầu về nhà cửa. Trong các ngành khác, hoạt động kinh doanh cũng dần chững lại do những khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn. Trên thực tế, đã có hàng nghìn doanh nghiệp phải đóng cửa hoặc tạm dừng hoạt động do chi phí vốn quá cao.
Mức chênh lệch lớn trong tăng trưởng xuất khẩu và nhập khẩu đã nêu bật sự suy giảm mạnh của cầu nội địa. Tính từ đầu năm tới nay , xuất khẩu tăng 22,1% so với cùng kỳ năm ngoái trong khi nhập khẩu chỉ tăng 4,4%. Tăng trưởng xuất khẩu giảm từ 23,0% trong tháng 3 xuống 16,7% trong tháng 4 so với cùng kỳ năm ngoái đã phản ánh những yếu tố cơ bản. Còn nếu so sánh theo tháng và có điều chỉnh theo mùa vụ, xuất khẩu từ sụt giảm 19,2% vào tháng 3 đã tăng 3,7% vào tháng 4 (nguyên nhân chính là do dịp Tết đã có tác động lên các số liệu điều chỉnh mùa vụ). Nhìn chung, trong lúc kinh tế Trung Quốc đang chậm lại và Tây Âu lâm vào suy thoái khiến cho xuất khẩu giảm sút từ 2011, thì ở Mỹ và Nhật Bản giá hàng hóa lại tăng, cũng như nhu cầu tương đối mạnh, đã giữ được nhịp tăng trưởng xuất khẩu. Trong thời gian tới, chúng tôi kỳ vọng xuất khẩu sẽ tăng 17,7% trong cả năm, giảm so với mức dự đoán ban đầu là 22,9%. Nhu cầu của các nhà nhập khẩu nước ngoài có lẽ sẽ tăng lên vì Trung Quốc đang dần hồi phục cũng như Mỹ đã có mức tăng trưởng vượt dự báo. Tuy nhiên, xét về nguồn cung, khi nhiều doanh nghiệp bị hạn chế trong tiếp cận vốn vì giá vay vốn quá cao, sản xuất hàng hóa sẽ bị ảnh hưởng. Thêm vào đó, xuất khẩu Việt Nam cũng sẽ mất chút ít lợi thế cạnh tranh do VND đang ổn định. Vì vậy, mặc dù vẫn sẽ có tăng trưởng, nhưng tốc độ xuất khẩu của Việt Nam sẽ chậm lại trong năm nay.
Các chuyên gia của HSBC tin rằng sự sụt giảm đáng lo lắng nhất không phải là ở xuất khẩu mà là nhập khẩu đang suy giảm đáng kể. Trong khi Việt Nam cần giảm tốc nhập khẩu để kìm hãm thâm hụt thương mại, thì số liệu tăng trưởng nhập khẩu yếu kém cũng cho thấy rằng cầu nội địa đang thấp. Vì hầu hết các mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam được sử dụng cho sản xuất hơn là tiêu dùng, mức tăng trưởng nhập khẩu thấp cho thấy các doanh nghiệp đang khá thận trọng và ước đoán nhu cầu thị trường sẽ rất thấp trong những tháng tới. Thực tế, các nguyên vật liệu nhập khẩu như phân bón, bông, vải sợi, nguyên liệu da giày, thép, ô tô, xe máy, xăng và khí đốt hóa lỏng đã chứng kiến mức sụt giảm mạnh trong vài tháng trở lại đây khi so sánh cùng kỳ năm ngoái. Với mức suy giảm trong cầu nhập khẩu, phản ánh cầu tiêu dùng trong nước thấp cũng như môi trường sản xuất khó khăn hơn, kỳ vọng thâm hụt thương mại sẽ được cải thiện đáng kể và giảm từ 9,8 tỷ USD trong năm 2011 xuống 4,6 tỷ USD trong năm 2012.


VND - viễn cảnh tươi sáng, nhưng vẫn nên thận trọng
Trong số Kinh tế Vĩ mô - Triển vọng thị trường Việt Nam ra ngày 13/3/2012, chúng tôi đã tóm lược nhiều nhân tố làm chúng ta lo ngại về việc VND đã bắt đầu cải thiện. Thâm hụt thương mại đã ổn định và cải thiện rất nhiều, cùng nguồn vốn FDI vào mạnh mẽ, là những lý do khiến tình hình tiếp tục trở nên tích cực hơn. Câu chuyện thương mại lại tiếp diễn khi tăng trưởng tín dụng thấp làm giảm tăng trưởng nhập khẩu, trong khi xuất khẩu vẫn tăng trưởng mạnh mẽ (Biểu đồ 1). Cho tới nay, cán cân thương mại và FDI đã ở trong khu vực tích cực trong vòng sáu tháng, đã đóng góp vào sự ổn định của VND.
Tuy nhiên, tại thời điểm hiện tại, chúng tôi tiếp tục giữ quan điểm thận trọng về đồng nội tệ. Trong khi có rất ít nguy cơ xảy ra phá giá VND ngay lập tức, vẫn có chút quan ngại rằng chính sách tiền tệ sẽ quá lỏng nếu lạm phát quay trở lại mạnh hơn vào nửa cuối năm. Tuy nhiên, nếu lạm phát tiếp tục giảm, và các lãi suất chính sách không bị hạ quá nhanh, thì VND vẫn sẽ tiếp tục ổn định.
Lãi suất cắt giảm nhiều và nhanh... nhưng lạm phát vẫn có nguy cơ giảm tiếp

Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng tôi, trong khi cuộc chiến với lạm phát có thể đã giành thắng lợi, chúng ta vẫn phải chiến đấu với một cuộc chiến dài hạn hơn. Các chuyên gia phân tích kinh tế của chúng tôi đã chỉ ra rằng áp lực giá cả có thể tăng cao vào nửa cuối năm ở các nước châu Á, do đó, có khả năng các chính sách tiền tệ của NHNN không phản ánh thị trường kịp thời, gây ảnh hưởng nghiêm trọng lên đồng VND.
Nguồn: DDDN
