
Tin tức
Tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam: Bắt đầu từ đâu và theo lộ trình nào? (17/5)
17/05/2012 - 16 Lượt xem
Trong văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng dùng từ “cơ cấu lại” rất thận trọng với nghĩa không chỉ Việt hóa thuật ngữ “tái cơ cấu” mà còn nhằm tránh hiểu lầm tái cơ cấu là cần thay đổi tất cả, là làm lại từ đầu như kiểu perestroika. Trên thực tế, mô hình tăng trưởng đang sử dụng đã có nhiều yếu tố “tận khai”, dựa quá nhiều vào phát triển theo chiều rộng, dựa vào đầu tư vốn thiếu hiệu quả, tận dụng lao động chất lượng thấp, giá rẻ và khai thác tàn phá tài nguyên thiên nhiên không tái tạo (dầu khí, than, khoáng sản ... chẳng hạn). Hệ quả là tăng trưởng “nóng”, hiệu quả kém, nhất là dựa vào tăng đầu tư, nên hệ quả là hiệu quả thấp, sức cạnh tranh không cao, là nguyên nhân quan trọng nhất gây lạm phát cao.
Trong bài viết đăng trên Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 10-2011, đã nêu rõ, năng suất lao động trong lĩnh vực FDI chẳng hạn đã giảm phần nửa, khoảng cách với năng suất lao động chung từ hơn 10 lần 10 năm trước, nay chỉ còn 4 lần vì lĩnh vực đầu tư mà chúng ta hy vọng có năng suất cao này đã bị chấp nhận nhiều ngành có năng suất thấp, chất lượng thấp, sử dụng lao động với tiền công rẻ mạt... nên không phải là lĩnh vực “nêu gương” và tạo sự lan tỏa không lớn trong nền kinh tế. Các ngành kinh tế dân doanh tuy có năng suất cao gấp rưỡi thời kỳ đang vực dậy sau khủng hoảng và nở hoa sau Luật Doanh nghiệp năm 2000, nhưng năng suất lao động vẫn thấp chỉ bằng phần nửa năng suất lao động chung của xã hội, làm giảm hiệu quả và sức cạnh tranh chung.
Còn khu vực kinh tế nhà nước chỉ có năng suất bằng 1/4 so với khu vực FDI dù đã được đầu tư rất nhiều. Rất nhiều doanh nghiệp nhà nước (DNNN), nhất là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước đã có lượng vốn đầu tư rất lớn vào các dự án ngoài ngành chính được giao, gây nên hiệu quả thấp, thậm chí nợ nần kéo dài.** Nguyễn Quang Thái, GS. TSKH., Hội Khoa học kinh tế Việt Nam.Vì thế cấu trúc lại nền kinh tế như Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nhấn mạnh rất đúng về việc đổi mới mô hình tăng trưởng là “vừa đặt ra yêu cầu vừa tạo điều kiện cho việc thay đổi mô hình phát triển, từ chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu tư, khai thác các tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực rẻ nhưng chất lượng thấp sang sự phát triển dựa vào các nhân tố năng suất tổng hợp bao gồm khả năng áp dụng các thành tựu mới nhất của khoa học công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực và kỹ năng quản lý hiện đại”.
Như vậy, định hướng cho tái cấu trúc là thực hiện nhiệm vụ đổi mới mô hình phát triển, hướng tới năng suất, chất lượng, hiệu quả và phát triển bền vững trong thời đại toàn cầu hóa và cách mạng công nghệ, làm cho nền kinh tế tăng cường mạnh mẽ, hiệu quả và sức cạnh tranh cao. Bản chất của vấn đề tái cấu trúc là tìm lại tư duy phát triển trên một triết lý phát triển đúng đắn, hướng đến nâng cao chất lượng, năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh, bảo đảm phát triển bền vững trong dài hạn. Tuy nhiên, do những mất cân đối vĩ mô đã tích tụ lâu ngày, nạn lạm phát cao, việc làm và thu nhập của người lao động gặp khó khăn, do năng suất và tiền lương đều thấp, đời sống của công nhân lao động bị ảnh hưởng xấu với nhiều người, nhất là những người có thu nhập thấp.
Điều đáng mừng là với tư duy đổi mới, nhìn thẳng sự thật, nói đúng sự thật, Ban lãnh đạo cao nhất của Đảng trong khi quán triệt Nghị quyết Đại hội XI đã vạch rất trúng các quan điểm định hướng và các mũi tập trung, nhưng lại không bị sa vào các chỉ tiêu quá cụ thể trong điều hành, như thường thấy trong các Nghị quyết Đảng các cấp ở các địa phương lâu nay. Có thể nói, ngay dự báo hằng năm cũng trở nên khó lường. Khi nêu mục tiêu về tỷ trọng cơ cấu ngành kinh tế của GDP là các con số cứng như thường làm trước đây, rõ ràng là một cách quản lý rất không tốt, nhất là mục tiêu tăng trưởng đã khó “quản lý”, và trong điều kiện lạm phát cao đã tác động nhiều chiều tới các phân ngành của nền kinh tế.
Các mục tiêu tăng trưởng hay cơ cấu nhìn chung cũng rất khó dự báo dưới tác động của lạm phát cao, giá cả biến thiên phức tạp và lượng tiêu hao vật tư bị tác động không đều giữa các ngành như hiện nay, thì các thành phần ngành của giá trị thực tế trong GDP càng khó dự báo, ngay cả khi đã “quyết định” (?) chỉ tiêu về tốc độ tăng trưởng tổng sản lượng công nghiệp, nông nghiêp hay tốc độ GDP nói chung! Hơn thế, nếu tính theo các yếu tố của tổng cầu của nền kinh tế là tiêu dùng cuối cùng và tích lũy-đầu tư, dưới tác động của điều chỉnh lớn cơ cấu kinh tế hiện nay sẽ làm cho quy mô GDP khả dụng cũng biến động (nhập siêu thuần và tỷ lệ tiêu hao vật chất của các ngành và sản phẩm cũng biến động, làm cho giá trị gia tăng của các sản phẩm và ngành cũng trở nên biến thiên phức tạp, khó lường), mà cả cơ cấu tiêu dùng cuối cùng và tích lũy-đầu tư cũng khác đi, do hành vi tiêu dùng của người dân và doanh nghiệp đã khác biệt dưới tác động của lạm phát. Vậy nên, từ quyết sách đúng của Nghị quyết Trung ương 3, có thể nghĩ về đổi mới tư duy, đổi mới quan điểm và cách tiếp cận phù hợp hơn với kinh tế thị trường, từ đó kiên quyết đổi mới phương pháp xây dựng và điều hành thực hiện kế hoạch trong điều kiện mới.
Trong điều kiện Đảng đã có quyết sách quan trọng, mang tính chỉ hướng, tạo “bước ngoặt” trong điều hành và quản lý nền kinh tế, cũng đã đặt ra yêu cầu đổi mới ngay gắn với cả Quốc hội và Chính chủ.
Nguồn: Tầm nhìn
