
Tin tức
Đầu tư công cho nông thôn giai đoạn 2006 – 2011: Mới chỉ đáp ứng được 60% nhu cầu (06/6)
06/06/2012 - 13 Lượt xem
Thiếu đầu tư cho sản xuất
Theo nhiều đại biểu, đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước cho khu vực nông nghiệp, nông thôn mới chỉ tập trung cho cơ sở hạ tầng chứ chưa dành nhiều cho khoa học công nghệ, đầu tư về giống mới… Bà Đinh Thị Phương Khanh (Long An) cho rằng, chỉ tính riêng nguồn vốn qua bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn thì đầu tư thuỷ lợi chiếm 80%, giai đoạn 2006 – 2010 chỉ có 400 tỉ đồng cho đầu tư hạ tầng và nghiên cứu giống.
Hiện nay, nếu tính nhu cầu giống để sản xuất cho 3,8 triệu ha đất lúa thì hệ thống sản xuất giống chưa đáp ứng được yêu cầu giống đạt tiêu chuẩn. Phần lớn nông dân là tự làm giống do đó chất lượng sản phẩm chưa cao, đây là một trở ngại lớn cho việc xây dựng nguồn nguyên liệu có năng suất, chất lượng cao và sức cạnh tranh khi ra thị trường thế giới.
Từ đó, bà Khanh đề nghị Chính phủ cần chỉ đạo các ngành, địa phương tập trung đầu tư đúng mức về vốn, công nghệ kỹ thuật cao để phát triển các loại giống có năng suất, chất lượng đáp ứng tốt yêu cầu xuất khẩu, phù hợp điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng của từng vùng. Đẩy mạnh công tác đào tạo chuyển giao khoa học kỹ thuật trong sản xuất bởi đây là những khâu trọng yếu quyết định năng suất, chất lượng nông sản phẩm hàng hoá.
Phải xây dựng niềm tin cho nông dân Trao đổi với phóng viên Sài Gòn Tiếp Thị về tình trạng thương lái Trung Quốc đến tận vườn tranh mua, tranh bán nhiều loại nông sản với các doanh nghiệp Việt Nam, lũng đoạn thị trường, sau đó quỵt nợ, bỏ trốn, viện trưởng viện Nghiên cứu lập pháp Quốc hội Đinh Xuân Thảo cho rằng: Chúng ta cần xây dựng hành lang pháp lý nhằm hạn chế, ngăn chặn hành vi cạnh tranh không lành mạnh; kiểm soát hoạt động của các thương lái nước ngoài bằng rào cản kỹ thuật, thương mại như chính sách thuế. Đồng thời, đưa hoạt động sản xuất, làm ăn của người nông dân theo hướng tập trung mà luật Hợp tác xã chúng ta đang xây dựng hướng đến mô hình đó: các hộ gia đình cùng hùn vốn làm ăn, có người lo cung ứng đầu vào, người lo tiêu thụ đầu ra. “Cần giải pháp tổng thể, đồng bộ, còn để người nông dân tự phát thì rất khó. Và phải xây dựng niềm tin lẫn nhau, giữa Nhà nước với nhà nông, giữa nhà nông với doanh nghiệp”, ông Thảo nhấn mạnh. Thảo Nguyễn (ghi) |
Ở góc nhìn khác, bà Nguyễn Thu Anh, Lâm Đồng, cho rằng sở dĩ việc hạn chế áp dụng khoa học công nghệ ở nông thôn là do bị khống chế hạn mức giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân tại điều 70 luật Đất đai. Điều này đang gây khó khăn trong việc mở rộng diện tích canh tác và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật. Bà Thu Anh đề nghị Chính phủ trình sớm dự thảo sửa đổi luật Đất đai vào kỳ họp thứ 4 của Quốc hội để khắc phục những hạn chế, bất cập, quy hoạch lại việc sử dụng đất... “Cần bồi hoàn hợp lý công bằng cho người dân, Nhà nước thu hồi một phần chênh lệch giá trị quyền sử dụng đất để phát triển cơ sở hạ tầng cho nông thôn, phải thấy rằng việc này do chúng ta làm chưa tốt nên gây bức xúc cho nông dân”, bà Anh nói.
“Còn nghèo nhưng bắt buộc phải thoát nghèo”
Đại biểu Nguyễn Thanh Thuỵ (Bình Định) cho hay, ngân hàng không muốn cho nông dân vay vốn, khi gặp rủi ro rất lâu nông dân mới nhận được sự hỗ trợ của Nhà nước, có những lúc họ không đủ sức để chống đỡ trước những bất trắc, rủi ro trong sản xuất và kinh doanh. Như khi có thông tin chăn nuôi heo sử dụng chất tạo nạc người tiêu dùng quay lưng với thịt heo, bị thương lái ép giá, giá heo hơi rớt từ 70.000 đồng xuống chưa đầy 40.000 đồng vẫn khó tiêu thụ, thiệt hại cho người chăn nuôi và ngành chăn nuôi trong cả nước 1 tháng lên đến trên 3.000 tỉ đồng và trong ba tháng qua thiệt hại hơn 10.000 tỉ đồng. Đến nay Nhà nước chưa có một biện pháp nào để giúp cho người dân và ngành chăn nuôi vượt qua khó khăn, nông dân đang vô cùng khó khăn.
Còn theo bà Nguyễn Thị Kim Bé (Kiên Giang), chủ trương phát triển tín dụng tại khoản 2, nghị định 41 của Chính phủ ban hành năm 2010 có quy định: “Đối với các khách hàng là cá nhân, hộ gia đình, hộ sản xuất kinh doanh ở nông thôn, các hợp tác xã, các tổ chức tín dụng được xem xét cho vay vốn không có đảm bảo bằng tài sản”. Song tại khoản 5, điều 8 của nghị định này quy định: “đối với các đối tượng này phải nộp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”. Như vậy, nghị định này chỉ áp dụng đối với các nông dân có tài sản. Còn những nông dân thuê đất, các hợp tác xã nông nghiệp thì khó tiếp cận và người nông dân lại ngậm ngùi trước chính sách này của Chính phủ.
Đại biểu Bùi Mạnh Hùng (Bình Phước) cho rằng chuẩn nghèo chúng ta xác định hiện nay là chưa đúng, mới chỉ đáp ứng được 48% thực tế. Do đó, tình trạng xoá nghèo nhưng không bền vững là phổ biến. Tỷ lệ tái nghèo rất cao. Ông nói: “Đầu tư cho công tác xoá đói giảm nghèo như vậy là nửa vời, hiệu quả thiếu tính bền vững và lãng phí, một số tỉnh hiện nay trên cơ sở quy định của quốc gia thấp như vậy nên ở một số tỉnh đề ra chuẩn nghèo cao hơn tiêu chuẩn của quốc gia, tôi thấy gây ra bất hợp lý cho các tỉnh khác”.
Đánh giá về chương trình đào tạo nghề, đại biểu Nguyễn Ngọc Phương (Quảng Bình) nói: “Theo báo cáo số liệu của 54/63 tỉnh, có 70% người được đào tạo tìm được việc làm, tôi cho rằng đánh giá này hơi lạc quan. Thực tế, từ các kỳ họp trước, nhiều đại biểu đã nêu ý kiến về đào tạo ở nông thôn, ví dụ đào tạo sửa chữa xe máy cho 50 người, trong một xã không thể có 50 người cùng tham gia sửa chữa xe máy, cho nên phải xem lại vấn đề này”.
Đông đảo đại biểu cũng tỏ ra lo ngại về vốn FDI cho nông nghiệp ở mức thấp, theo báo cáo của Uỷ ban thường vụ Quốc hội chỉ có 3,8% tổng số dự án và 2,3% vốn đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam và có xu hướng giảm hàng năm. Việc thiếu quy hoạch sản phẩm của từng vùng, chất lượng sản phấm thiếu tính cạnh tranh… cũng là các vấn đề khiến người nông dân khó thoát nghèo.
Nông dân cần nhất là giúp họ tiêu thụ sản phẩm Trao đổi với phóng viên Sài Gòn Tiếp Thị, ông Nguyễn Văn Phụng, chủ tịch hội Nông dân TP.HCM cho rằng báo cáo của uỷ ban Giám sát của Quốc hội về vấn đề đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn, về cơ bản đã đánh giá sát đầu việc yếu kém và nguyên nhân; giờ chỉ mong Chính phủ tiếp thu đánh giá, làm tốt hơn thì nông dân sẽ phấn khởi hơn, nhất là trong đầu tư cho nghiên cứu khoa học để phòng trừ dịch bệnh, có hệ thống thu mua nông sản cho dân, tránh tình trạng nông dân bị ép giá, bị thương lái Trung Quốc “bỏ bom” như thời gian qua. Ông Phụng giải thích thêm, nông dân làm ra sản phẩm đã cực, có được thị trường đã mừng, bán được giá cao càng mừng hơn và họ làm sao biết được khi nào thương lái sẽ không mua nữa? Quản lý nhà nước phải làm được điều đó cho dân, định hướng cho dân. Nguyên nhân ở chỗ tiêu thụ nông sản cho nông dân chưa tốt. Chính phủ từng có quyết định 80 về liên kết bốn nhà, được nông dân mong đợi, nhưng sau nhiều năm chưa đi vào cuộc sống được bao nhiêu, dẫn đến khâu tiêu thụ sản phẩm cho nông dân còn khó khăn, nhất là trong trồng trọt. |
Nguồn: SGTT
