Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Giải cứu doanh nghiệp: Hành động nhanh hơn, quyết liệt hơn (01/8)

01/08/2012 - 20 Lượt xem

Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày 10/5/2012 của Chính phủ về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho DN đã được các bộ triển khai nhanh chóng bằng các quyết định của Bộ Tài chính về giảm, miễn một số loại thuế; của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) về giảm lãi suất cho vay xuống dưới 15%/năm, cơ cấu lại nợ quá hạn...; của Bộ Công thương về các giải pháp trước mắt và giải pháp lâu dài để các DN vượt qua được khó khăn...

Những diễn biến của tình hình kinh tế - xã hội trong quý II/2012 cho thấy tác động tích cực của các giải pháp đang được thực hiện. GDP quý II tăng 5,4%, cao hơn 1,37 điểm phần trăm so với quý I; CPI tháng 6 giảm 0,26% so với tháng 5, trong khi CPI 3 tháng trước đó chỉ tăng 0,2%/tháng; tỷ giá ngoại hối ổn định.

Mặc dù vậy, cần nhận diện đúng thực trạng kinh tế - xã hội của những tháng đầu năm, với cách tiếp cận theo quan điểm phát triển trung hạn và cần thấy rõ hơn nguy cơ tiềm ẩn về kinh tế - xã hội nếu kéo dài tình trạng trì trệ trong sản xuất, kinh doanh của các DN.

Thực trạng kinh tế 6 tháng đầu năm 2012 không phải là hiện tượng mới xuất hiện của năm nay, mà là hậu quả của quá trình suy giảm tốc độ tăng trưởng bắt đầu từ năm 2008. Sau 4 năm (1998 – 2001) kinh tế nước ta lâm vào tình trạng suy thoái do chịu tác động của khủng khoảng tiền tệ khu vực, tốc độ tăng trưởng kinh tế đã được phục hồi từ năm 2002, với mức 7,08%, rồi tăng dần lên 8,46% năm 2007. Nhưng từ năm 2008 đến nay, kinh tế đã tăng trưởng chậm lại, với 6,31% năm 2008; 5,32% năm 2009; 6,78% năm 2010; 5,89% năm 2011 và 4,38% trong 6 tháng đầu 2012. Do vậy, nếu không thấy hết tính cấp bách của việc ngăn chặn đà suy giảm kinh tế đã kéo dài gần 5 năm, để tìm giải pháp phục hồi càng sớm càng tốt tốc độ tăng trưởng trên 7% và cao hơn, thì nguy cơ nhãn tiền là sẽ không thể thực hiện được các mục tiêu của kế hoạch 5 năm 2011 - 2015 và của năm 2020 “về cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại”.

Cũng cần đánh giá trúng mức độ nghiêm trọng của tình hình kinh tế - xã hội của đất nước và tình trạng “dở sống, dở chết” của hàng chục nghìn DN mới có thể “bốc thuốc” đúng bệnh được, trong khi đó, số DN mới ra đời giảm sút rõ rệt ngay cả ở hai trung tâm kinh tế lớn là TP.HCM và Hà Nội, thu hút FDI mới giảm mạnh, báo hiệu không mấy sáng sủa cho tương lai.

Do chưa có con số chính thức về số DN trong 6 tháng đầu 2012, nên có thể dựa vào số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê vừa công bố để ngoại suy thực trạng và vấn đề đang đặt ra cho việc “giải cứu DN”. Tại thời điểm 1/1/2012, cả nước có 541.103 DN, trong đó có 524.076 DN ngoài nhà nước. Trong số DN ngoài nhà nước, có 362.540 DN đang hoạt động, 16.505 DN đăng ký chưa hoạt động, 23.422 DN ngừng sản xuất và 30.092 DN chờ giải thể. Như vậy, số DN ngừng hoạt động và chờ giải thể là 53.514 DN, chiếm 10,21%; còn nếu tính cả 91.517 DN không xác minh được, thì chiếm tới 26,7% DN ngoài nhà nước. Đó là tỷ lệ quá lớn, không thể coi là bình thường. Nếu có con số thống kê chính thức vào ngày 1/7/2012, thì tỷ lệ này chắc chắn còn cao hơn.

Những DN đang hoạt động thì phần lớn gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm; hàng tồn kho tăng, trong khi thiếu vốn lưu động để tiếp tục chu trình sản xuất mới. Tổng cục Thống kê cho biết, hàng tồn kho của sản phẩm công nghiệp chế biến tính đến ngày 1/6/2012 tăng 26% so với cùng kỳ năm trước; các siêu thị cũng lâm vào tình trạng tiêu thụ chậm,  mặc dù đã đưa ra nhiều chiêu thức khuyến mãi; thị trường bất động sản tiếp tục đóng băng.

Hàng chục nghìn DN đã ngừng sản xuất hoặc đang đứng bên bờ vực phá sản và cả những DN đang kinh doanh cầm chừng đang đòi hỏi được “cấp cứu” bằng hành động quyết liệt, nhanh hơn, đồng bộ và hiệu quả hơn.

- II -

Một nghịch lý được thể hiện ở CPI những tháng đầu năm là, mặc dù 300.000 tỷ đồng được bơm vào lưu thông, cộng thêm hàng chục nghìn tỷ đồng để tăng hơn 23% tiền lương và trợ cấp xã hội từ ngày 1/5/2012, nhưng CPI của các tháng 5, 6, 7 lại giảm.

CPI giảm là dấu hiệu đáng mừng, nhưng cũng đáng lo ngại. Nguyên nhân chủ yếu của nghịch lý đó là sức mua sản xuất và tiêu dùng giảm sút rõ rệt. Hiện tượng “dư thừa” hàng chục vạn tấn sắt thép, vài triệu tấn xi măng… gắn với tình trạng hàng trăm dự án bất động sản ngừng hoạt động. Tuy hàng triệu người được tăng lương và trợ cấp xã hội, nhưng do lòng tin giảm sút, người lao động phải chi tiêu dè xẻn, trong khi tình hình kinh tế chưa có dấu hồi phục hồi, hàng chục vạn người mất việc không có thu nhập.

Số liệu của NHNN cho biết, tăng trưởng tín dụng nửa đầu năm 2012 chỉ đạt 0,76%. Với mức tăng trưởng tín dụng ít như vậy, mặc dù đạt được mục tiêu kiềm chế lạm phát, nhưng lại gây khó khăn cho DN, nhất là DN nhỏ và vừa.

Mặc dù vậy, nợ xấu vẫn gia tăng. Số liệu do NHNN công bố gần đây cho thấy, nợ xấu đã trên 8% (nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng có thể cao hơn). NHNN cần công bố rõ hơn đối tượng đang có nợ xấu. Theo quan sát của chúng tôi, hai đối tượng chính được vay tín dụng và có nợ xấu nhiều nhất là các DN nhà nước (nhất là các tập đoàn, tổng công ty) và các DN tư nhân loại lớn.

Những Vinashin, Vinalines, EVN… chắc chắn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng số 2,5 triệu tỷ đồng vốn tín dụng và trong khoản nợ xấu. Các tập đoàn, DN tư nhân lớn có ưu thế do là chủ sở hữu hoặc cổ đông chi phối trong các ngân hàng thương mại, nên chiếm tỷ trọng không nhỏ trong tổng dư nợ tín dụng và trong khoản nợ xấu. Trong khi đó, hàng chục vạn DN nhỏ và vừa chỉ chiếm tỷ lệ khiêm tốn trong tín dụng và trong nợ xấu, bởi họ khó tiếp cận vốn vay từ nhiều năm nay.

Có thể thấy một thực trạng đáng buồn là, trong khi Nhà nước chủ trương khuyến khích kinh tế tư nhân, nhất là DN nhỏ và vừa, thì NHNN lại chưa có chủ trương dành tín dụng ưu đãi cho các DN này.

Tình hình kinh tế những tháng đầu năm cũng xuất hiện vấn đề đã tồn tại nhiều năm nhưng chưa được giải quyết, đó là mối quan hệ giữa thị trường trong nước với thị trường xuất khẩu. Việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ này sẽ tạo điều kiện để các DN Việt Nam, nhất là DN nhỏ và vừa “có đất dụng võ”, bởi phần lớn DN này chưa đủ sức vươn ra thị trường thế giới.

Kế hoạch phát triển kinh tế năm 2012 dự kiến ban đầu GDP tăng 6,5 - 7,0%, kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 15%. Thực tế 6 tháng đầu năm, trong khi GDP chỉ tăng 4,36%, thì tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu đạt 22,2%, tăng hơn 50% so với dự kiến.

Xuất khẩu góp phần tăng thu ngân sách, tạo việc làm, nhưng có đóng góp vào GDP hay không là vấn đề chưa được nghiên cứu và chưa có lời giải.

Những số liệu về mối quan hệ giữa hai chỉ tiêu đó không biểu hiện qua hệ hàm số giữa mở rộng xuất khẩu với gia tăng tốc độ tăng GDP, do vậy, cần từ thực trạng đó để nghiên cứu chiến lược xuất khẩu hợp lý hơn, đề ra định hướng mới cho hoạt động ngoại thương để thiết thực góp phần tăng trưởng kinh tế của nước ta.

Mở rộng thị trường nội địa cùng với chủ trương “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” là định hướng chiến lược, đồng thời là giải pháp quan trọng để các DN vượt qua khó khăn trong giai đoạn hiện nay. Với trên 70% dân số nước ta sống ở nông thôn, cần quan tâm hơn nữa hệ thống chính sách có liên quan đến nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Không thể không lưu ý đến khoảng cách có xu hướng doãng ra về trình độ phát triển của các thành phố lớn, các tỉnh đồng bằng, ven biển với các địa phương miền núi, vùng sâu, vùng xa.

Một phần tư thế kỷ đất nước phát triển theo kinh tế thị trường, đã đến lúc, người dân các địa phương có quyền đòi hỏi Nhà nước tăng nhiều hơn và nhanh hơn vốn đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật điện, đường giao thông, thông tin liên lạc, trường học, bệnh viện, phân công lại các ngành công nghiệp theo hướng dịch chuyển đến những địa phương còn kém phát triển một số ngành công nghiệp ở thành phố và tỉnh đã phát triển.

Một chiến lược công nghiệp mới cần được xây dựng theo quan điểm tái cấu trúc nền kinh tế theo mô hình tăng trưởng mới, trong đó hài hòa mối quan hệ giữa xuất khẩu và thị trường nội địa, phân công lao động hợp lý giữa các vùng kinh tế là “cứu cánh” cho các DN hiện có và là “bà đỡ” cho việc ra đời nhiều hơn các DN mới.

- III -

Để giải cứu DN, các biện pháp về thuế có tác dụng lâu dài, nhưng việc giảm, miễn một số loại thuế như thuế thu nhập DN không có tác động trực tiếp, vì khi DN ngừng hoạt động hoặc đang gặp khó khăn, thua lỗ, thì làm gì có lãi để đóng thuế. Giảm, miễn thuế giá trị gia tăng cũng chỉ có tác động đối với những DN đang kinh doanh bình thường. Nên chăng, cần có giải pháp về tài chính ngoài thuế như đã từng làm vào năm 2008 bằng một vài gói kích cầu có định hướng rõ ràng và được thực hiện đúng mục tiêu đối với một số đối tượng, trong đó có một số loại hình DN.

Trước mắt và lâu dài, thì giải pháp tín dụng vẫn là quan trọng, bởi vì chức năng chủ yếu của ngân hàng là huy động vốn và cho vay; các DN thường chỉ có một số vốn tự có, phải vay ngân hàng để xây dựng nhà xưởng, làm vốn lưu động. Ngân hàng khi thực hiện tín dụng đối với DN là gián tiếp tham gia kinh doanh cùng với DN, bao gồm cả chia sẻ rủi ro với DN.

Trong những tháng đầu năm, NHNN đã đề ra, kịp thời điều chỉnh chính sách tín dụng đối với DN. Gần đây, NHNN đã điều chỉnh lãi suất tiền gửi và tiền vay, cơ cấu các khoản vay cũ, tạo điều kiện cho DN vay tín dụng mới để vượt qua khó khăn, ổn định sản xuất, kinh doanh. Những chủ trương đó được cộng đồng DN đánh giá cao.

Vấn đề còn lại là tổ chức thực hiện cần khẩn trương và hiệu quả. Một số ngân hàng thương mại, như Vietcombank, VietinBank, VPBank, Techcombank đã vào cuộc, một số DN đã được tiếp cận các khoản tín dụng mới, nhưng nhìn chung còn quá ít và chưa kịp thời, trong khi cứ mỗi ngày trôi đi thì DN lại thêm khó khăn.

Về lâu dài, NHNN cần nghiên cứu điều kiện đặc thù của DN Việt Nam, nhất là DN nhỏ và vừa, để đề xuất với Chính phủ chính sách ưu đãi tín dụng cho DN, kể cả nghiên cứu định chế tín dụng riêng đối với DN nhỏ và vừa để hỗ trợ thiết thực quá trình hình thành và phát triển của loại hình DN này.

Nguồn: Đầu tư