Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

An sinh để an dân (02/8)

02/08/2012 - 18 Lượt xem

PV: Trong bối cảnh kinh tế khó khăn càng cần coi trọng công tác bảo đảm an sinh xã hội. Xin bà cho biết về công tác thực hiện an sinh xã hội thời gian qua như thế nào?

Bà Trương Thị Mai: Tính đến năm 2010, tỷ lệ người nghèo chỉ còn khoảng dưới 10%. Tốc độ giảm nghèo của Việt Nam không chỉ được khẳng định trong các chỉ tiêu kinh tế - xã hội trong nước mà còn đã được thế giới và các tổ chức quốc tế ghi nhận. Có thể nói Việt Nam đã có bước tiến khá tốt và vững chắc trong quá trình thực hiện chính sách giảm nghèo.

Theo thống kê, hiện nay người nghèo đang được thụ hưởng khoảng 30 chính sách khác nhau. Những chính sách này tác động đồng bộ, từ hỗ trợ cho sản xuất (khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư; vay vốn tín dụng…) đến các chính sách về giáo dục đào tạo, học nghề; chăm sóc sức khỏe; hỗ trợ tư vấn pháp lý, hỗ trợ nhà ở, xuất khẩu lao động…Có thể nói, các chính sách này cơ bản góp phần giúp người nghèo có cơ hội thoát nghèo và một bộ phận người nghèo đã thoát nghèo bền vững. Bên cạnh đó là chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH), trong đó đáng chú ý là chế độ bảo hiểm hưu trí.

Hiện nay, có khoảng trên 1,8 triệu người đang hưởng chế độ hưu trí. Chính sách bảo hiểm y tế (BHYT) cũng đã đạt tỷ lệ bao phủ 62% – 63% dân số. BHYT đã hỗ trợ cho người nghèo khi lâm vào cảnh ốm đau, bệnh tật, giúp họ tránh được nguy cơ bị “rớt xuống đáy xã hội”. Tuy nhiên việc tăng viện phí hiện nay cũng là một thách thức đặt ra đối với BHYT. Ngoài ra, hiện có khoảng vài triệu người đang được tiếp cận với các chính sách bảo trợ xã hội như: Người già neo đơn không nơi nương tựa, trẻ mồ côi, người khuyết tật…. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là mức bảo trợ còn thấp (chỉ từ 180.000đ đến 360.000đ/tháng)… Hiện nay, ngân sách nhà nước phân bổ cho các chính sách an sinh xã hội như tôi vừa nói ở trên đang chiếm khoảng 30% ngân sách và đang có xu hướng tăng trong những năm tiếp theo.

PV: Bà đã từng phát biểu rằng phải đưa chính sách BHXH trở thành chính sách an sinh xã hội số một. Vậy theo bà cần phải làm gì để chính sách này đạt được vị trí đó?

Bà Trương Thị Mai: Chúng ta đã đi được một bước khá dài đối với việc thực hiện chính sách BHXH, đặc biệt là bảo hiểm hưu trí. Cũng như nhiều quốc gia khác, Việt Nam đang hướng đến việc coi bảo hiểm hưu trí là trụ cột an sinh số một. So với BHYT, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động… là bảo hiểm ngắn hạn, vận hành trong khoảng thời gian từng năm một, thì bảo hiểm hưu trí là bảo hiểm dài hạn, được tích lũy trong suốt cuộc đời người lao động ngay từ khi người lao động còn đang làm việc để đến khi không còn khả năng lao động thì sẽ có một khoản lương hưu bù đắp cho việc không còn thu nhập.

Hiện nay, mới chỉ có khoảng 10,1 triệu người lao động đang tham gia bảo hiểm hưu trí trong tổng số khoảng 14 – 15 triệu người lao động có quan hệ lao động. Do vậy, mục tiêu quan trọng trong 10 năm tới của chính sách BHXH là phải tiếp tục tăng nhanh số người tham gia. Nếu số lượng người lao động tham gia BHXH thấp thì có nghĩa là gánh nặng tuổi già không thu nhập của họ sẽ thuộc về Nhà nước.

Sắp tới, Chính phủ và Quốc hội sẽ đánh giá lại toàn bộ chính sách bảo hiểm để sửa Luật BHXH, đồng thời đưa ra các chính sách mới để đến sau năm 2020, BHXH sẽ mang yếu tố bền vững hơn, đảm bảo nguyên tắc đóng – hưởng, cân đối thu – chi. Đảm bảo cho hàng triệu người lao động khi bước vào tuổi nghỉ hưu sẽ có cuộc sống ổn định.

PV: Cuộc chiến xóa đói, giảm nghèo của nước ta đã đạt những thành tựu được thế giới đánh giá cao, song ranh giới giữa đói nghèo, cận nghèo, tái nghèo và thoát nghèo bền vững thật là mong manh. Có khi chỉ cần hai, ba cơn bão dồn dập hay một đợt mưa lũ bất thường là sẽ cuốn trôi, phá hủy thành quả xóa đói giảm nghèo ở một cơ sở. Vậy, theo bà thách thức lớn nhất đặt ra hiện nay là gì?

 

Bà Trương Thị Mai: Trong vòng 15 năm (1996 - 2010) nước ta đã có khoảng 15 triệu người thoát nghèo, tỷ lệ người nghèo từ khoảng 40% giảm xuống còn dưới 10% vào năm 2010. Đây là thành tựu rất đáng ghi nhận, không chỉ từ phía Việt Nam mà cả các tổ chức quốc tế cũng nhận thấy Việt Nam đã có bước tiến khá nhanh trong chính sách giảm nghèo.

Tuy nhiên, mục tiêu chính và cũng là thách thức lớn nhất của ta hiện nay không phải chỉ là giảm nghèo mà là giảm nghèo bền vững. Khi công bố chuẩn nghèo mới thì con số người nghèo chiếm hơn 13% dân số và cận nghèo chiếm hơn 7% dân số. Nhưng, ranh giới giữa hộ nghèo và cận nghèo là rất mong manh. Hiện nay số hộ nghèo và cận nghèo tập trung tại những huyện nghèo, các xã, thôn, làng, bản vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc ít người (theo Nghị quyết 30a).

Trên thực tế, thu nhập của hộ cận nghèo không hơn hộ nghèo là bao nhiêu nhưng khi hộ nghèo bước sang diện cận nghèo thì chính sách hỗ trợ của Nhà nước dành cho họ còn rất ít. Chẳng hạn BHYT người nghèo được hỗ trợ 100%, tới hộ cận nghèo Nhà nước chỉ hỗ trợ 50%, đến năm 2012 mới tăng lên 70%. Tuy nhiên, ngay cả khi được hỗ trợ 70% thì số người cận nghèo được tiếp cận với BHYT vẫn còn rất thấp. Do vậy, chúng ta cần tiếp tục có chủ trương duy trì một số chính sách hỗ trợ cho hộ cận nghèo để tạo cơ hội cho họ thoát nghèo bền vững.

PV: Thực tế, các nhóm đối tượng của an sinh xã hội sẽ ngày càng đa dạng, đòi hỏi phải có một hệ thống chính sách an sinh xã hội đa tầng, đa lớp, linh hoạt và có khả năng hỗ trợ lẫn nhau. Theo bà, nên giải quyết vấn đề này như thế nào?

Bà Trương Thị Mai: Hệ thống an sinh xã hội rất đa dạng, linh hoạt, có chính sách do Nhà nước bảo đảm, có chính sách Nhà nước và người dân cùng lo, có chính sách cá nhân tự lo trên cơ sở khuôn khổ pháp lý do Nhà nước quy định. Chẳng hạn như chính sách bảo trợ xã hội thì hoàn toàn do Nhà nước chi trả. Chính sách dành cho người nghèo thì cả Nhà nước và người dân cùng lo bởi ngoài trách nhiệm của Nhà nước, bản thân người nghèo cũng phải nỗ lực, tự vươn lên để thoát nghèo. Chính sách BHXH, BHYT…. có một bộ phận do Nhà nước bảo đảm, một bộ phận do Nhà nước hỗ trợ, một bộ phận người dân phải tự mình tham gia trên cơ sở thu nhập của mình. Sự phân hóa chính sách như vậy sẽ làm cho chính sách linh hoạt và mềm dẻo hơn, tăng cường được trách nhiệm từ phía Nhà nước và cả người dân trong an sinh xã hội của chính mình.

Hiện nay, ngoài BHXH theo luật pháp chúng ta cũng khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện bảo hiểm hưu trí doanh nghiệp. Phần đóng góp này không do doanh nghiệp giữ mà phải được lập thành một quỹ gửi tại ngân hàng, khoản quỹ này do ngân hàng chi trả cho người lao động khi họ về già (phòng ngừa rủi ro khi doanh nghiệp gặp khó khăn hay phá sản). Luật BHXH sắp tới sẽ nghiên cứu đầy đủ về vấn đề này.

Nhìn chung, mỗi quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế thì đều phải dành sự quan tâm đến hệ thống chính sách an sinh xã hội, đây là yếu tố tất yếu nhằm đạt được mục tiêu phát triển bền vững. Việt Nam sẽ sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện dần chính sách an sinh xã hội theo hướng đa dạng, linh hoạt trên cơ sở sự bảo đảm của Nhà nước và sự tham gia ngày càng đông đảo của người dân vào hệ thống chính sách này.

PV: Trân trọng cảm ơn bà!

Nguồn: Chinhphu.vn