
Tin mới
Giảm thuế để nuôi dưỡng nguồn thu (15/8)
15/08/2012 - 26 Lượt xem
Nhìn rộng ra, tại châu Âu, tiến trình cắt giảm thuế diễn ra liên tục và hiện chỉ còn 23%, thay vì mức 40% cách đây hơn chục năm. Tương tự, các nước Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) cũng đã cắt giảm mạnh thuế suất thuế TNDN từ mức 33% cách đây chục năm xuống còn 25%, thậm chí nhiều lĩnh vực hiện chỉ chịu thuế suất 21%.
Trong khi đó, so với phần lớn các nước trên thế giới và trong khu vực, trình độ nền kinh tế, cơ sở hạ tầng, năng suất lao động, sức cạnh tranh… của Việt Nam còn khoảng cách khá xa. Trong điều kiện lợi thế nhân công giá rẻ đang dần được thu hẹp do thực hiện chính sách cải cách tiền lương và Việt Nam cũng không muốn cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài bằng nhân công giá rẻ, thì với thuế suất TNDN còn cao, Việt Nam sẽ khó khăn hơn trong thu hút đầu tư nước ngoài.
Theo số liệu thống kê, trong giai đoạn 2007 - 2011, tổng thu ngân sách nhà nước tương đương 29% GDP. Năm 2011, mức độ động viên vào ngân sách tuy có giảm so với những năm trước đó, nhưng vẫn tương đương 27% GDP, trong đó, tỷ lệ động viên vào ngân sách từ thuế và phí chiếm tới 24,4% GDP.
Việc ngân sách động viên từ thuế và phí quá nhiều không chỉ biến Việt Nam trở thành nền kinh tế có mức độ động viên vào ngân sách cao nhất thế giới (tỷ lệ thu từ thuế và phí/GDP của Trung Quốc là 17,3%, Thái Lan và Malaysia xấp xỉ 15,5%, Philippines là 13%, Indonesia là 12,1%, Ấn Độ là 7,8%...), mà còn khó đạt được mục tiêu Chiến lược Cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 - 2020 đã được Thủ tướng chính phủ phê duyệt, theo đó, tỷ lệ huy động thu ngân sách nhà nước giai đoạn 2011 - 2015 khoảng 23 - 24% GDP, trong đó tỷ lệ động viên từ thuế, phí và lệ phí 22 - 23% GDP; trong giai đoạn tiếp theo, tỷ lệ động viên vào ngân sách tiếp tục giảm xuống còn tối đa 21 - 22% GDP.
Bên cạnh việc hạn chế khả năng tích lũy, làm giảm đầu tư phát triển, giảm năng lực cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước và hạn chế thu hút đầu tư nước ngoài, mức thu thuế và phí cao còn là một trong những nguyên nhân dẫn đến các hành vi gian lận về thuế.
Bộ Tài chính cũng đã nhìn thấy những hạn chế của thuế suất thuế TNDN cao và đang dự kiến giảm thuế suất này khi sửa đổi Luật Thuế TNDN vào năm tới. Vấn đề đặt ra là, giảm thuế suất thuế TNDN xuống mức nào cho hợp lý. Có quan điểm cho rằng, nên giảm xuống mức 20%, nhưng ý kiến khác đề xuất giảm xuống 22% rồi sau đó giảm tiếp xuống 20%.
Nếu tính toán đơn thuần theo số học, khi giảm thuế TNDN, ngân sách sẽ giảm thu, nên sẽ khó khăn hơn trong việc cân đối thu ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên, nền kinh tế không vận hành theo tính toán số học đơn thuần. Bằng chứng là, sau 15 năm đưa thuế TNDN vào cuộc sống, Việt Nam đã 2 lần giảm thuế suất từ mức 32% xuống 28% và bây giờ là 25%, nhưng số thu ngân sách từ sắc thuế này luôn tăng trưởng 2 con số/năm, nhờ doanh nghiệp có thêm nguồn tích luỹ để mở rộng hoạt động sản xuất - kinh doanh và tăng thu hút đầu tư nước ngoài.
Có thể nói, mức thuế suất thuế TNDN 25% hiện tại đã lỗi thời, khiến nhiều doanh nghiệp thêm khó khăn và buộc ngân sách phải thắt lưng buộc bụng bằng các giải pháp miễn thuế, giảm thuế, gia hạn nợ thuế. Vì vậy, nên giảm tiếp và giảm mạnh thuế TNDN để tăng sức cạnh tranh cho nền kinh tế, hỗ trợ doanh nghiệp, mà ngân sách có thể cũng không phải mất hàng chục ngàn tỷ đồng tiền miễn, giảm, gia hạn nợ thuế.
Nguồn: Đầu tư
