
Tin tức
Nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế (23/8)
23/08/2012 - 24 Lượt xem
Những vấn đề đặt ra đối với hội nhập
Hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn 2012 - 2020 diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới vẫn chưa thoát ra khỏi khủng hoảng, thị trường quốc tế diễn biến phức tạp, giá cả biến động thất thường, “kinh tế ảo” cả về tiền tệ và hàng hóa gia tăng nhanh kèm theo nhiều rủi ro khó lường trước.
Từ cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, thế giới bàn nhiều về kinh tế tri thức, hiện nay lại quan tâm hơn đến “kinh tế xanh” thân thiện với môi trường, được coi là định hướng phát triển mới toàn cầu và từng quốc gia trong bối cảnh loài người đang đứng trước mối đe dọa do đã tiếp cận giới hạn của tăng trưởng kinh tế, thiên tai, dịch bệnh có liên quan đến nhiệt độ trái đất tăng lên; đầu tư và thương mại quốc tế phải thích nghi với “kinh tế xanh”.
Sự trỗi dậy của các nền kinh tế mới nổi: Brazil, Nga, Ấn Độ, Nga và Nam Phi (BRICS), nhất là Trung Quốc trở thành nền kinh tế thứ hai thế giới, gần đây là hiện tượng đồng “Nhân dân tệ” đang đi những bước đầu tiên trên con đường trở thành đồng tiền chuyển đổi quốc tế. WTO đang gặp bế tắc trong việc khởi động lại Vòng đàm phán Doha, do đó các hiệp định thương mại tự do song phương được thúc đẩy nhanh hơn để lấp chỗ trống khi chưa đạt được kết quả đàm phán đa phương trong khung khổ WTO.
Hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra trong bối cảnh tình hình kinh tế đã có dấu hiệu tích cực trong kiềm chế lạm phát, phục hồi tốc độ tăng trưởng trong quý II năm nay, nhưng chưa thể khẳng định được xu thế phát triển của những tháng cuối năm, vì còn tùy thuộc vào tình hình kinh tế thế giới và kết quả của chính sách và giải pháp đã, sẽ được ban hành; nước ta phải năng động và có hiệu quả hơn trong việc tái cấu trúc nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng.
Những vấn đề đặt ra đối với hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng và phức tạp hơn, nhưng cũng có điều kiện tốt hơn để giải quyết: 1) Tiềm lực kinh tế của đất nước hiện nay và số lượng doanh nghiệp lớn hơn nhiều so với những năm đầu thế kỷ này; 2) Kinh nghiệm đã tích lũy được trong điều hành kinh tế vĩ mô của Nhà nước, của doanh nghiệp trong kinh tế thị trường và trong buôn bán, đầu tư quốc tế, 3) Vị thế của nước ta trong ASEAN, ở châu Á và trên thế giới đã gia tăng. Có thể khẳng định rằng, người Việt Nam đã đủ năng lực trí tuệ và bản lĩnh để giải quyết những vấn đề trọng đại của đất nước trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế quốc tế vì lợi ích dân tộc và góp phần có trách nhiệm cùng với các dân tộc khác giải quyết các vấn đề có tính toàn cầu. Mấu chốt của vấn đề là cần có chính sách khuyến khích mọi ý tưởng mới, sáng kiến mới của các tầng lớp dân cư trên cơ sở phát huy dân chủ để cùng Nhà nước thực hiện các chiến lược phát triển, trong đó có hội nhập kinh tế quốc tế.
Từ năm 2012 đến 2015, nước ta tiếp tục hội nhập sâu rộng hơn với khu vực và thế giới, trong đó nổi lên các vấn đề quan trọng: (1) Thực hiện đầy đủ cam kết trong khung khổ WTO về mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ; (2) Thực hiện lộ trình giảm thuế quan theo AFTA và hình thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015; (3) Dỡ bỏ hàng rào quan thuế theo FTA ASEAN - Trung Quốc; (4) Đàm phán về FTA với EU, Hàn Quốc và Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Lựa chọn mục tiêu, lộ trình hội nhập
Với khối lượng đồ sộ những công việc phải thực hiện mà thời gian thì ngày càng ngắn lại, do vậy, đòi hỏi phải có sự lựa chọn mục tiêu, lộ trình, điều hành quá trình hội nhập:
Thứ nhất, ASEAN tiến tới cộng đồng với ba trụ cột, trong đó có cộng đồng kinh tế với thị trường chung gồm 10 nước thành viên được tự do lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ và lao động có kỹ năng có tác động trực tiếp đến kinh tế - xã hội nước ta. Theo quyết định của lãnh đạo cấp cao các nước thành viên, từ đầu năm 2015, đã thực hiện mô hình Cộng đồng ASEAN, thời gian chỉ còn hơn 2 năm mà nhiều vấn đề mới chỉ được thỏa thuận về nguyên tắc chưa đủ chi tiết để thực hiện, trong khi dù năng lực nội sinh của nước ta đã gia tăng, nhưng khoảng cách về trình độ phát triển vẫn thấp hơn so với Singapore, Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Philippines, do đó để bảo đảm lợi ích dân tộc, đòi hỏi phải nghiên cứu nội hàm các quy định đã được đồng thuận trong ASEAN, xem xét dưới mọi góc độ cả tác động tích cực và phản ứng tiêu cực đối với kinh tế - xã hội của đất nước, chủ động đề ra phương án đối phó với các tình huống.
Thứ hai, kim ngạch xuất khẩu năm 2011 của nước ta bằng 80% GDP, nếu tính cả kim ngạch nhập khẩu thì gần bằng 2 lần GDP. Có nên tiếp tục tăng cao tốc độ xuất khẩu như những năm vừa qua, hay điều chỉnh đến mức hợp lý để bảo đảm cân bằng giữa thị trường nội địa với xuất nhập khẩu? Quan điểm của chúng tôi là nên quan tâm hơn đến thị trường nội địa, không chỉ là để thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân, mà còn là điều kiện tiên quyết để kích thích sự ra đời và là môi trường sống của doanh nghiệp dân doanh, chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Do vậy, nên có bước đi thích hợp trong đàm phán FTA song phương trên cơ sở nghiên cứu thương mại quốc tế với từng đối tác, đánh giá thực trạng, tác động đến tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và phục vụ lợi ích cộng đồng; tránh tình trạng ký kết FTA mà không đưa lại lợi ích cho đất nước.
Thứ ba, trong hoạt động thương mại, cần quan tâm đến các chiều cạnh của việc thực hiện FTA ASEAN - Trung Quốc, bởi năm 2015 là thời điểm Việt Nam phải thực hiện việc mở cửa thị trường đối với hàng hóa của nước này. Điều gì sẽ xảy ra, liệu có nạn “đại hồng thủy” hàng hóa Trung Quốc tại Việt Nam? Mặc dù kim ngạch xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Trung Quốc đã gia tăng, nhưng do tốc độ tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc tăng nhanh hơn, từ 13,4%/năm giai đoạn 2001 - 2006 lên 23,3%/năm giai đoạn 2010 - 2011, nên nhập siêu trong quan hệ thương mại hai chiều đã đến 13 - 14 tỷ USD/năm. Vấn đề giảm nhập siêu, tiến tới cân bằng xuất nhập khẩu và tiếp đó là xuất siêu có liên quan đến việc giải bài toán quan hệ thương mại giữa Việt Nam với Trung Quốc.
Thứ tư, cần sớm ban hành định hướng chính sách mới về FDI. Ngày 19/9/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chỉ thị có liên quan đến xây dựng định hướng chính sách mới về FDI, chấn chỉnh quản lý nhà nước đối với FDI. Sau gần một năm, nhưng việc nghiên cứu soạn thảo văn bản theo định hướng mới vẫn chưa hoàn tất, trong khi cuộc sống đòi hỏi phải gấp rút chuyển hướng FDI để bảo đảm chất lượng, hiệu quả hơn và phù hợp với xây dựng “kinh tế xanh”, từ đó đổi mới đồng bộ chính sách ưu đãi, hoạt động xúc tiến đầu tư, thẩm định cấp phép và triển khai thực hiện dự án FDI.
Các tỉnh, thành phố cần đánh giá nghiêm túc thành quả và vấn đề đặt ra đối với FDI, quan tâm hơn đến hiệu quả kinh tế - xã hội, tận dụng tốt hơn lợi thế so sánh để tạo ra sự khác biệt của địa phương nhằm hình thành kinh tế vùng lãnh thổ ở từng địa bàn, trong đó mỗi tỉnh, thành phố là bộ phận hữu cơ, tác động và bổ sung cho các địa phương khác để tạo nên sức cạnh tranh của từng vùng.
Đối với đầu tư ra nước ngoài, đã đến lúc cần nghiên cứu thực trạng để đánh giá đúng kết quả đạt được trên cơ sở lợi ích doanh nghiệp và lợi ích dân tộc, bởi đầu tư ra nước ngoài không chỉ là chuyển vốn, mà là cả khả năng giải quyết việc làm sang nước khác, trong khi nước ta đang cần cả vốn và việc làm. Trên cơ sở đó, đề ra định hướng về thị trường, ngành nghề, quy định việc chuyển ngoại tệ ra nước ngoài, chuyển lợi nhuận về nước, theo dõi, hướng dẫn doanh nghiệp vừa bảo đảm luật pháp, nền văn hóa nước nhận đầu tư, vừa tuân thủ quy định của pháp luật nước ta.
Đổi mới tổ chức và quản lý
Hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải đổi mới tổ chức và quản lý để thích ứng với tính đa dạng, phạm vi rộng lớn và phức tạp của từng lĩnh vực.
Một là, chuyển sang giai đoạn mới cần bắt đầu bằng việc chấn chỉnh hệ thống thông tin từ Trung ương đến địa phương bảo đảm tính chính xác và kịp thời, cải tiến công tác thống kê để đạt độ chính xác cao và tính hệ thống làm chỗ dựa cho việc đánh giá, phân tích thực trạng, nhanh chóng thiết lập mạng thông tin điện tử kết nối các cơ quan nhà nước với doanh nghiệp.
Hai là, phối kết hợp tốt hơn giữa các cơ quan, đơn vị họat động kinh tế đối ngoại với cơ quan ngoại giao ở từng nước để tạo thành hợp lực trong việc xử lý có hiệu quả mối quan hệ chính trị, kinh tế giữa nước ta với từng nước.
Ba là, chuyên nghiệp hóa các đoàn đàm phán với đội ngũ chuyên gia có trình độ chuyên môn, luật pháp quốc tế, ngoại ngữ đặt dưới sự chỉ đạo của Bộ trưởng Công thương để thực hiện đàm phán song phương và đa phương. Cần có cơ chế rõ ràng để thu hút các doanh nghiệp tham gia các vòng đàm phán, bởi các thỏa thuận trong các hiệp định thương mại tác động trực tiếp đến kinh doanh của doanh nghiệp.
Bốn là, thiết lập sự phối hợp, kết hợp có hiệu quả giữa các chủ thể tham gia hội nhập quốc tế, nghiên cứu để đổi mới bộ máy điều hành kinh tế đối ngoại của Chính phủ theo hướng có “tổng tư lệnh” là Phó thủ tướng Chính phủ chỉ đạo trực tiếp việc phân công, hợp tác giữa các bộ, ngành, địa phương, để nâng cao hơn nữa hiệu năng quản lý nhà nước, xử lý kịp thời các vấn đề và tình huống gắn với sự biến động bất thường của thế giới.
Nguồn: Đầu tư
