
Tin tức
Có phải “tồn kho” là nút thắt của nền kinh tế? (27/8)
27/08/2012 - 19 Lượt xem
Từ năm 2011, do chính sách thắt chặt tiền tệ, theo số liệu của tổng cục Thống kê, vốn đầu tư thực hiện chiếm trong GDP từ 42% năm 2010 giảm còn 34,6% GDP năm 2011; và khi lượng tiền này thực sự đi vào sản xuất, chỉ còn 29% GDP. Vậy tại sao với lượng đầu tư giảm nhanh chóng và đột ngột như vậy mà các doanh nghiệp vẫn mở rộng sản xuất để tồn kho? Đây thực sự là một điều khó hiểu trong sự vận hành của nền kinh tế Việt Nam.
Nếu để ý, có thể thấy rằng trong suốt giai đoạn từ 2000 – 2010, tồn kho luôn chiếm trong GDP từ 3 – 5%. Năm 2011, số liệu ước tính của cơ quan thống kê cho thấy tồn kho cũng chỉ chiếm trong GDP khoảng 3,2%. Mức tồn kho này thậm chí còn là mức thấp nhất từ năm 2007 đến nay. Sang năm 2012, hầu như các doanh nghiệp đều có xu hướng không mở rộng, thậm chí thu hẹp sản xuất, vậy tại sao tồn kho lại đột ngột tăng cao (đến 1.7.2012 tăng 21% so với cùng kỳ), tới mức trở thành chủ đề quan trọng trong hầu hết các hội thảo và được xem như “nút thắt” của nền kinh tế?
Có lẽ cần phải xem lại nguồn của các số liệu này xem nền kinh tế có thể tồn kho nhiều đến vậy hay không. Lưu ý rằng trong GDP bao gồm tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình, tiêu dùng cuối cùng của Chính phủ, tích luỹ tài sản cố định, thay đổi tồn kho và xuất khẩu thuần về hàng hoá và dịch vụ (xuất khẩu – nhập khẩu). Có thể thấy, trong sáu tháng đầu năm 2012, GDP tăng trưởng được 4,38%, chính là nhờ lượng “tồn kho” và tăng trưởng về nhập khẩu giảm khá sâu. Mối nguy nằm ở chỗ, vì bản chất tăng trưởng GDP của kỳ trước dựa vào tồn kho như vậy, nên kỳ sau doanh nghiệp sẽ không có động cơ để mở rộng sản xuất. Mặt khác, vì sản xuất của Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu (qua các năm, nhập khẩu trực tiếp cho nhu cầu tiêu dùng cuối cùng chỉ chiếm khoảng 7 – 8% tổng nhập khẩu), nên nhập khẩu giảm sút, theo thời gian, cũng là một dấu hiệu rất rõ của đình đốn của sản xuất.
Giả sử rằng lượng tồn kho lớn của nền kinh tế là sự thật thì nguyên nhân phải từ phía nhu cầu cuối cùng, và tồn kho chỉ là hệ quả của cầu yếu. Khi nhu cầu giảm sút sẽ không kích thích được phía cung – vốn cũng rất mệt mỏi do lãi suất và các loại chi phí đầu vào cao và ngày càng tăng lên. Sự suy trầm từ phía cung dẫn đến thu nhập của người dân giảm sút và đương nhiên là hành vi tiêu dùng của họ cũng sẽ thay đổi, cộng thêm giá xăng dầu, viện phí, học phí… leo thang sẽ càng làm cầu suy giảm. Vòng xoáy kiểu trôn ốc cứ thế tiếp diễn, vòng sau nhỏ hơn vòng trước.
Đến đây, có thể nhận thấy rõ nút thắt thực sự của nền kinh tế chính là nằm ở chỗ cấu trúc kinh tế không phù hợp.
Nguồn: SGTT
