
Tin tức
Nhận diện hiện trạng “thiếu cả thầy lẫn thợ” (19/12)
19/12/2012 - 20 Lượt xem
Vậy hiện trạng về nguồn nhân lực phục vụ phát triển KT-XH mà Thủ tướng đề cập được nhận diện dưới các góc độ khác nhau cụ thể như thế nào?.
Trước hết thể hiện ở tỷ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo của nước ta còn thấp xa so với công bố lâu nay. Theo Niên giám Thống kê năm 2011 của Tổng cục Thống kê, tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo năm 2011 của Việt Nam mới đạt 15,4% (nam đạt 17,2%, nữ đạt 13,5%, thành thị đạt 30,9%, nông thôn đạt 9%). Trong 63 địa phương, có 11 địa phương đạt cao hơn tỷ lệ chung, cao nhất là Đà Nẵng 33,2%, tiếp đến là Hà Nội 30,6%, TP Hồ Chí Minh 29,3%; có 52 địa bàn đạt thấp hơn, trong đó có 16 địa bàn đạt dưới 10%. Tỷ lệ lao động trong độ tuổi (15- 60 đối với nam, 15- 55 đối với nữ) đã qua đào tạo năm 2011 mới đạt 16,3% (nam đạt 17,6%, nữ 14,7%, thành thị 32%, nông thôn 9,5%). Những con số này thấp xa so với các con số lâu nay được các ngành công bố và được đặt thành mục tiêu kế hoạch (đến năm 2015 đạt 55%, đến năm 2020 đạt 75%). Theo Tổng cục Thống kê, lao động đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật của cấp học hoặc trình độ đào tạo tương đương thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ 3 tháng trở lên (có văn bằng hoặc chứng chỉ công nhận kết quả đào tạo). Trong khi các con số lâu nay còn bao gồm cả những người có trình độ tương đương nhưng không có văn bằng hoặc chứng chỉ công nhận kết quả đào tạo. “Thiếu cả thầy lẫn thợ” còn được thể hiện ở chỗ số sinh viên bình quân 1 vạn dân đến cuối năm 2011 mới đạt 251 người, thấp xa so với các nước trong khu vực và trên thế giới. “Thiếu cả thầy lẫn thợ” còn được nhận diện dưới góc độ cơ cấu đào tạo chưa hợp lý giữa các loại trình độ, giữa các ngành nghề, giữa lý thuyết và thực hành. Việc phân bổ, thu hút cũng chưa hợp lý giữa Trung ương, địa phương và cơ sở, giữa các địa bàn, vùng miền. “Thiếu cả thày lẫn thợ” còn được so sánh với yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều đó lý giải tại sao, các doanh nghiệp ở trong nước thường nhập khẩu phần nhiều máy móc, thiết bị có kỹ thuật- công nghệ không cao, thậm chí còn thấp, một mặt là để hợp túi tiền (do giá thấp và rẻ), mặt khác là để phù hợp với trình độ quản lý và tay nghề của người lao động. Việc khấu hao đối với những nước tiên tiến thường chỉ trong thời gian khoảng 5 năm để có vốn và để kịp với sự thay đổi kỹ thuật- công nghệ, nhưng ở Việt Nam thường kéo khá dài để giá bán sản phẩm còn chịu đựng được, để “tận dụng”. Nếu cứ như vậy, thì không tránh khỏi sự thua thiệt về hiệu quả, sức cạnh tranh, thua kém về năng suất lao động, ... Cũng chính vì thế, Chiến lược phát triển kinh tế, xã hội thời kỳ 2011- 2020 đã xác định đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực có chất lượng cao là một trong ba đột phá chiến lược; nâng tỷ trọng đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tốc độ tăng trưởng kinh tế lên 31- 32% vào năm 2015 và 35% vào năm 2020; nâng tỷ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo đến năm 2015 đạt 55% và đến năm 2020 đạt 70%. Việc đặt ra câu hỏi “thừa thầy thiếu thợ” của đại biểu thanh niên là trên cơ sở cho rằng việc đào tạo đại học còn tràn lan, chưa gắn kết với nhu cầu xã hội, dẫn đến sinh viên ra trường khó tìm việc, tạo tiêu cực trong tuyển dụng viên chức... Câu hỏi này xuất phát từ sự so sánh trên một số mặt. Kết quả tổng điều tra dân số năm 2009 cho thấy, tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật của dân số 15 tuổi trở lên: có bằng sơ cấp chiếm 2,6%, có bằng trung cấp chiếm 4,7%, có bằng cao đẳng, đại học trở lên chiếm 6% (cao đẳng 1,6%, đại học trở lên chiếm 4,4%). Theo đó, tỷ số lao động có bằng cấp các loại như sau: sơ cấp 1/ trung cấp 1,8/ cao đẳng, đại học 2,3. Đây là tỷ số ngược so với thông lệ quốc tế. Trong khi đó, so sánh quy mô các cấp đào tạo và tốc độ năm học 2011- 2012 với 2008- 2009 của các cấp đào tạo vẫn còn có xu hướng làm cho tỷ số trên giãn rộng ra. Về số trường, cả nước hiện có 419 trường đại học, cao đẳng, tăng 6,6%; trung cấp chuyên nghiệp có 294 trường, tăng 4,3%; cao đẳng và trung cấp nghề có 436 trường (cao đẳng 128, trung cấp 308) và hơn 1.000 cơ sở có lớp dạy nghề. Về số giáo viên, cao đẳng, đại học có 84,2 nghìn người, tăng 38,7%; trung cấp chuyên nghiệp có 199 nghìn người, tăng 18,5%. Về số học sinh, cao đẳng, đại học có 2208,1 nghìn người, tăng 28,4%, trung cấp chuyên nghiệp có 618,9 nghìn người, giảm 1,6%; dạy nghề có 1860 nghìn người (trong đó cao đẳng, trung cấp có 420 nghìn người, sơ cấp có 1440 nghìn người). Về số học sinh tốt nghiệp, cao đẳng, đại học có 398,2 nghìn người, tăng tới 78,8%; trong khi trung cấp chuyên nghiệp có 216 nghìn người, tăng 9,7%. Theo đó, tốc độ tăng của cao đẳng, đại học tiếp tục cao hơn trung cấp và cao hơn học nghề, càng làm cho tỷ số các cấp đào tạo dãn thêm ra. Ở đây có nguyên nhân ở cả hai phía. Về phía người học, vẫn ham chạy theo bằng cấp đại học, còn coi nhẹ trung cấp, dạy nghề, trong khi đất nước đang thiếu những công nhân kỹ thuật lành nghề. Về phía các cơ quan nhà nước, cần có phân luồng và khuyến khích sự phân luồng đó để có cơ cấu hợp lý. Công cuộc CNH-HĐH đất nước rất cần nhân lực đủ trình độ đáp ứng, vì nếu “chỉ có thầy, không có thợ” hoặc "thiếu cả thầy lẫn thợ" về lâu dài, chúng ta khó thực hiện được mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội. Và đối với mỗi thanh niên, nguồn nhân lực trẻ, quý giá của đất nước, con đường lập thân, lập nghiệp, cống hiến cho đất nước rất rộng mở, có thể học cao đẳng, đại học hoặc học trung cấp, học nghề. Dù con đường nào, thành thầy hay là thợ thì để thành công, theo gợi mở của Thủ tướng Chính phủ tại buổi Đối thoại ngày 14/12, mỗi thanh niên phải “có hoài bão, ý chí, quyết tâm, bản lĩnh, sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình và dân tộc mình”.
Nguồn: Chinhphu.vn
