
Tin tức
Tình hình kinh tế xã hội Quý I/2013 (01/04)
01/04/2013 - 16 Lượt xem
Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến 20/3/2013 đạt 6034,2 triệu USD, tăng 63,6% so với cùng kỳ năm 2012, bao gồm: Vốn đăng ký của 191 dự án được cấp phép mới đạt 2927 triệu USD (giảm 26,3% số dự án và tăng 2,2% số vốn so với cùng kỳ năm trước); vốn đăng ký bổ sung của 71 lượt dự án được cấp phép từ các năm trước với 3107,2 triệu USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện quý I năm 2013 ước tính đạt 2,7 tỷ USD, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm 2012.
Trong ba tháng đầu năm, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký mới vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 5539,3 triệu USD, chiếm 91,8% tổng vốn đăng ký; ngành kinh doanh bất động sản đạt 249,8 triệu USD, chiếm 4,1%; các ngành còn lại đạt 245,1 triệu USD, chiếm 4,1%.
Trong ba tháng đầu năm, cả nước có 23 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài cấp phép mới, trong đó Thái Nguyên có số vốn đăng ký lớn nhất với 2 tỷ USD, chiếm 68,3% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Bình Dương 286,2 triệu USD, chiếm 9,8%; Đồng Nai 221,5 triệu USD, chiếm 7,6%; Hải Phòng 120,4 triệu USD, chiếm 4,1%.
Trong số 26 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư cấp mới, Xin-ga-po là nhà đầu tư lớn nhất với 2247,5 triệu USD, chiếm 76,8% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Nhật Bản 299,8 triệu USD, chiếm 10,2%; Đài Loan 83,7 triệu USD, chiếm 2,9%; Hàn Quốc 70,2 triệu USD, chiếm 2,4%...
Thu, chi ngân sách Nhà nước
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/3/2013 ước tính đạt 136,3 nghìn tỷ đồng, bằng 16,7% dự toán năm, trong đó thu nội địa 93,1 nghìn tỷ đồng, bằng 17,1%; thu từ dầu thô 20,8 nghìn tỷ đồng, bằng 21%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 21,8 nghìn tỷ đồng, bằng 13,1%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước 29,6 nghìn tỷ đồng, bằng 17% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) 20,1 nghìn tỷ đồng, bằng 18,7%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước 20,9 nghìn tỷ đồng, bằng 17,4%; thu thuế thu nhập cá nhân 10 nghìn tỷ đồng, bằng 18,2%; thu thuế bảo vệ môi trường 2,3 nghìn tỷ đồng, bằng 15,8%; thu phí, lệ phí 1,8 nghìn tỷ đồng, bằng 17,5%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/3/2013 ước tính đạt 171,9 nghìn tỷ đồng, bằng 17,6% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển 26,9 nghìn tỷ đồng, bằng 15,4% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản 26 nghìn tỷ đồng, bằng 15,3%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể ước tính đạt 124,4 nghìn tỷ đồng, bằng 18,9%; chi trả nợ và viện trợ 20,6 nghìn tỷ đồng, bằng 19,6%.
Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Xuất khẩu hàng hoá
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Ba ước tính đạt 11 tỷ USD, tăng 53,9% so với tháng trước và tăng 15,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I năm 2013, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 29,7 tỷ USD, tăng 19,7% so với cùng kỳ năm trước (nếu loại trừ yếu tố giá, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu quý I đạt 31 tỷ USD, tăng 25,1%), bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 10,4 tỷ USD, tăng 10,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 19,3 tỷ USD, tiếp tục tăng mạnh ở mức 25,6%, chủ yếu do đóng góp của một số mặt hàng gia công lắp ráp như: Điện thoại các loại và linh kiện; điện tử máy tính và linh kiện; đá quý kim loại quý và sản phẩm. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm gần 65% tổng kim ngạch xuất khẩu và đóng góp 15,8 điểm phần trăm vào mức tăng chung, khu vực trong nước chiếm 35% và đóng góp 3,9 điểm phần trăm.
Một số mặt hàng xuất khẩu trong quý I đạt mức kim ngạch tăng cao là: Điện thoại các loại và linh kiện đạt 4,5 tỷ USD, tăng 89,8% so với cùng kỳ năm trước; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 2,4 tỷ USD, tăng 49,1%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 1,3 tỷ USD, tăng 21,3%; sắn và sản phẩm của sắn đạt 460 triệu USD, tăng 23,4%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm đạt 485 triệu USD, tăng 287,3%; túi xách, ví, va li, mũ, ô dù đạt 390 triệu USD, tăng 23,3%. Một số mặt hàng xuất khẩu đạt mức tăng khá là: Hàng dệt may đạt 3,8 tỷ USD, tăng 18,5% so với cùng kỳ năm 2012; dầu thô đạt 1,9 tỷ USD, tăng 13,1%; giày dép đạt 1,7 tỷ USD, tăng 14,6%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 1,2 tỷ USD, tăng 15,7%. Riêng kim ngạch xuất khẩu gạo và cà phê giảm so với cùng kỳ năm trước, trong đó cà phê đạt 1,1 tỷ USD, giảm 1,5%; gạo đạt 644 triệu USD, giảm 1,4%.
Về cơ cấu hàng hóa xuất khẩu quý I, nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản ước tính đạt 13,5 tỷ USD, tiếp tục duy trì tỷ trọng cao với 45,5% (cao hơn so với mức 42,7% của quý I/2012) và tăng mạnh với 27,4% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu do sự đóng góp của mặt hàng điện thoại và linh kiện các loại có tỷ trọng liên tục tăng trong 3 năm qua. Nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp đạt 10,5 tỷ USD, tăng 15,1% và chiếm 35,5% (thấp hơn so với mức 37% của quý I/2012). Hàng nông sản, lâm sản đạt 4 tỷ USD, tăng 6,7% và chiếm 13,5% (thấp hơn mức 15,1% của quý I/2012). Hàng thủy sản ước tính 1,3 tỷ USD, giảm 2,3% và chiếm 4,2% (thấp hơn mức 5,2% của quý I/2012). Xuất khẩu vàng ước tính 380 triệu USD, chiếm 1,3% (quý I/2012 không có mặt hàng này).
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu quý I năm 2013, EU vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất với kim ngạch xuất khẩu ước đạt 5,7 tỷ USD, tăng 32% so với cùng kỳ năm 2012. Tiếp đến là thị trường Hoa Kỳ đạt 4,9 tỷ USD, tăng 17%; ASEAN đạt 4,7 tỷ USD, tăng 29,4%; Trung Quốc đạt gần 3 tỷ USD, tăng 8,2%.
Nhập khẩu hàng hoá
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Ba ước tính đạt 11,3 tỷ USD, tăng 56,1% so với tháng trước và tăng 22% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu ước tính đạt 29,2 tỷ USD, tăng 17% so với cùng kỳ năm trước, tương đương 4,2 tỷ USD (Nếu loại trừ yếu tố giá, nhập khẩu quý I ước đạt 30 tỷ USD, tăng 20,4%), bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 13,1 tỷ USD, chiếm 44,7% tổng kim ngạch hàng hóa nhập khẩu và tăng 7,9%, đóng góp 3,8 điểm phần trăm trong mức tăng chung; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 16,1 tỷ USD, chiếm 55,3%, tăng 25,5%, tương đương 3,3 tỷ USD và đóng góp 13,2 điểm phần trăm trong mức tăng chung.
Kim ngạch nhập khẩu quý I năm nay tăng cao do sự đóng góp của một số mặt hàng thuộc nhóm hàng phục vụ gia công lắp ráp hàng xuất khẩu. Trong ba tháng đầu năm, nhiều mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng cao so với cùng kỳ năm trước như: Điện tử, máy tính và linh kiện đạt 4 tỷ USD, tăng 51,5%; điện thoại các loại và linh kiện đạt 1,7 tỷ USD, tăng 86,7%; chất dẻo đạt 1,3 tỷ USD, tăng 17,7%; thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu đạt 760 triệu USD, tăng 64,9%; kim loại thường đạt 699 triệu USD, tăng 22%; sản phẩm chất dẻo đạt 545 triệu USD, tăng 20,8%; phương tiện vận tải khác và phụ tùng đạt 362 triệu USD, tăng 126,3%; bông đạt 281 triệu USD, tăng 34,6%. Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu quý I giảm so với cùng kỳ năm 2012 là: Xăng dầu 1,5 tỷ USD, giảm 27,8%; hóa chất đạt 669 triệu USD, giảm 4,9%; lúa mỳ đạt 135 triệu USD, giảm 46,5%; xe máy đạt 132 triệu USD, giảm 24,5%.
Về cơ cấu hàng hóa nhập khẩu trong quý I, nhóm hàng tư liệu sản xuất đạt 26,7 tỷ USD chiếm 91,5% tổng kim ngạch hàng hóa nhập khẩu và tăng 15,4% so với cùng kỳ năm 2012, trong đó máy móc, thiết bị dụng cụ, phương tiện vận tải đạt 11,2 tỷ USD chiếm 38,3% và tăng 28,7%; nhóm nguyên nhiên vật liệu đạt 15,5 tỷ USD, chiếm 53,2% và tăng 7,4%. Hàng tiêu dùng đạt 2,1 tỷ USD, chiếm 7,1% và tăng 15,6%. Vàng ước đạt 400 triệu USD chiếm 1,4% và tăng 42% so với cùng kỳ.
Về thị trường hàng hóa nhập khẩu quý I, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 7,6 tỷ USD, tăng 31% so với cùng kỳ 2012. Tiếp theo là ASEAN đạt 5,1 tỷ USD, tăng 4,6%; Hàn Quốc đạt 4,9 tỷ USD, tăng 47%; EU đạt 2,2 tỷ USD tăng 20%; Hoa Kỳ đạt 1,2 tỷ USD, tăng 3,3%.
Tháng Ba nhập siêu 300 triệu USD, nhưng do hai tháng đầu năm xuất siêu 781 triệu USD nên tính chung quý I/2013 xuất siêu 481 triệu USD, bằng 1,6% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu 3,1 tỷ USD; khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 2,6 tỷ USD.
Chỉ số giá
Chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 3/2013 giảm 0,19% so với tháng trước và đây là tháng Ba có chỉ số giá giảm kể từ sau năm 2009 [2]. Nguyên nhân chính do nhu cầu sau Tết giảm, các doanh nghiệp đang tập trung xử lý hàng tồn kho. Mặt khác, mặt bằng giá tiêu dùng đã ở mức cao.
Trong các nhóm hàng hóa và dịch vụ, hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm mạnh nhất với 0,53% (Lương thực giảm 0,59%; thực phẩm giảm 0,95%); đồ uống và thuốc lá giảm 0,08%; giao thông giảm 0,25%; bưu chính viễn thông giảm 0,05%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ còn lại tăng nhẹ, trong đó nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,25%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,23%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,18%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,09%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,07%; giáo dục tăng 0,04%.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 3/2013 tăng 2,39% so với tháng 12/2012 và tăng 6,64% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân quý I năm nay tăng 6,91% so với bình quân cùng kỳ năm 2012.
Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ
Chỉ số giá vàng tháng 3/2013 giảm 2,73% so với tháng trước; giảm 4,73% so với tháng 12/2012; giảm 3,47% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 3/2013 tăng 0,41% so với tháng trước; tăng 0,36% so với tháng 12/2012; tăng 0,39% so với cùng kỳ năm 2012.
Chỉ số giá sản xuất
Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản quý I năm 2013 tăng 2,06% so với quý trước và giảm 5,48% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng nông nghiệp tăng 2,19% và giảm 6,92%; hàng lâm nghiệp tăng 1,58% và tăng 7,41%; hàng thủy sản tăng 1,64% và giảm 1,74%. Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng công nghiệp quý I năm 2013 tăng 0,98% so với quý trước và tăng 3,58% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất sản phẩm khai khoáng giảm 0,24% và tăng 2,04%; sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,69% và tăng 3,04%; điện và phân phối điện tăng 3,79% và tăng 8,73%; nước sạch, nước thải tăng 1,88% và tăng 9,16%.
Chỉ số giá nguyên, nhiên, vật liệu dùng cho sản xuất quý I năm 2013 tăng 1,34% so với quý trước và tăng 3,36% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá một số ngành là: Khai khoáng tăng 5,7% và tăng 8,49%; thiết bị điện tăng 2,65% và tăng 2,56%; thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 2,42% và tăng 5,39%; chế biến, sửa chữa và lắp đặt máy móc thiết bị tăng 2,17% và giảm 0,29%.
Chỉ số giá cước vận tải kho bãi quý I năm 2013 tăng 3,32% so với quý trước và tăng 8,58% so với cùng kỳ năm trước, trong đó giá cước vận tải hành khách tăng 3,55% và tăng 9,71%; giá cước vận tải hàng hóa tăng 2,11% và tăng 5,91%; giá cước dịch vụ kho bãi và hỗ trợ vận tải tăng 6,57% và tăng 14,85%. Chỉ số giá cước vận tải các ngành đường như sau: Giá cước ngành đường sắt quý I năm 2013 tăng 4,85% so với quý trước và tăng 11,43% so với cùng kỳ năm trước; giá cước vận tải đường bộ và xe buýt tăng 4,38% và tăng 10,91%; đường thủy tăng 0,77% và tăng 3,64%; đường hàng không tăng 1,33% và tăng 4,3%; dịch vụ kho bãi và các dịch vụ hỗ trợ vận tải tăng 6,57% và tăng 14,85%.
Chỉ số giá xuất, nhập khẩu hàng hóa
Chỉ số giá xuất khẩu hàng hoá quý I năm 2013 giảm 0,12% so với quý trước và giảm 4,32% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá của một số mặt hàng là: Chất dẻo giảm 5,53% và giảm 15,59%; sản phẩm bằng sắt thép giảm 4,79% và giảm 5,43%; sắt thép giảm 4,04% và giảm 3,62%; gạo giảm 2,61% và giảm 17,96%. Chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá quý I năm 2013 giảm 0,13% so với quý trước và giảm 2,82% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá của một số mặt hàng là: Cao su giảm 6,84% và giảm 12,09%; thuốc trừ sâu giảm 4,72% và giảm 11,27%; sản phẩm từ hóa chất giảm 4,05% và giảm 8,28%; sắt thép giảm 3,21 và giảm 13,09%. Nếu tính theo đồng Việt
MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI
Lao động, việc làm
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên ước tính đến 01/4/2013 là 53,04 triệu người, tăng 251,8 nghìn người so với thời điểm 01/01/2013, trong đó lao động nam chiếm 51,5%; lao động nữ chiếm 48,5%. Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động ước tính đến 01/4/2013 là 47,27 triệu người, tăng 183,6 nghìn người so với thời điểm 01/01/2013, trong đó lao động nam chiếm 53,5%; nữ chiếm 46,5%.
Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh tế đến 01/4/2013 ước tính 52,04 triệu người, tăng 337,7 nghìn người so với bình quân năm 2012 và tăng 76,1 nghìn người so với quý IV năm 2012. Về cơ cấu, lao động trong khu vực nông, lâm, thuỷ sản chiếm 47,0%, giảm 0,4 điểm phần trăm so với năm 2012; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 20,8%, giảm 0,4 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ chiếm 32,2%, tăng 0,8 điểm phần trăm. Số liệu cho thấy trong những tháng đầu năm 2013, hoạt động sản xuất trong ngành nông nghiệp, thủy sản và ngành công nghiệp vẫn đang gặp nhiều khó khăn, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa nên thu hút lao động giảm.
Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi quý I năm 2013 là 2,1%, trong đó khu vực thành thị là 3,4%, khu vực nông thôn là 1,57%. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi quý I năm 2013 là 3,58%, trong đó khu vực thành thị là 2,54%, khu vực nông thôn là 4%. Tỷ lệ thiếu việc làm và tỷ lệ thất nghiệp của quý I năm 2013 tăng so với năm 2012 ở cả khu vực thành thị và khu vực nông thôn.
Đời sống dân cư và đảm bảo an sinh xã hội
Trong những tháng đầu năm, các địa phương thực hiện tốt công tác an sinh xã hội nên đời sống dân cư có một số cải thiện. Trong dịp Tết Nguyên đán Quý Tỵ 2013, chính quyền và cấp ủy các tỉnh, thành phố cùng các tổ chức chính trị-xã hội và các doanh nghiệp đã tổ chức các đoàn đi thăm, tặng quà và chúc Tết các gia đình liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng, hộ nghèo và các đối tượng chính sách. Theo báo cáo của các địa phương, tổng kinh phí dành cho hoạt động an sinh xã hội và giảm nghèo trong ba tháng đầu năm 2013 là 2540 tỷ đồng, bao gồm: 1211 tỷ đồng quà thăm hỏi và hỗ trợ các đối tượng chính sách; 1085 tỷ đồng hỗ trợ các hộ nghèo và hơn 244 tỷ đồng cứu đói, cứu trợ xã hội khác.
Tình trạng thiếu đói trong nông dân tuy vẫn xảy ra nhưng đã giảm so với cùng kỳ năm trước. Trong tháng 3/2013, cả nước có 45,9 nghìn hộ thiếu đói, giảm 42,7% so với tháng 3/2012, tương ứng với 194,0 nghìn nhân khẩu thiếu đói, giảm 43,4%. Tính chung ba tháng đầu năm, cả nước có 178,8 nghìn lượt hộ thiếu đói, giảm 10,8% so với cùng kỳ năm trước, tương ứng với 737,3 nghìn lượt nhân khẩu thiếu đói, giảm 10,9%. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm, các cấp, các ngành, các tổ chức từ trung ương đến địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 12,2 nghìn tấn lương thực và 8,2 tỷ đồng.
Giáo dục
Theo báo cáo từ các địa phương, tại thời điểm đầu năm học 2012-2013, cả nước có 13546 trường mẫu giáo, tăng 402 trường so với năm học trước; 15496 trường tiểu học, tăng 159 trường; 10334 trường trung học cơ sở, tăng 101 trường và 2392 trường trung học phổ thông, tăng 42 trường. Trong năm học này, cả nước có 241,3 nghìn giáo viên mẫu giáo, tăng 38,7% so với năm học 2011-2012; giáo viên phổ thông trực tiếp giảng dạy là 834,8 nghìn người, tăng 0,8%, bao gồm: 373,5 nghìn giáo viên tiểu học, tăng 2%; 312,1 nghìn giáo viên trung học cơ sở, tương đương năm học trước và 149,2 nghìn giáo viên trung học phổ thông, giảm 0,6%. Tính đến hết tháng Ba năm 2013, cả nước có 61/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi (trong đó 04 tỉnh, thành phố đã được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi mức độ 2) và 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm
Trong ba tháng đầu năm, cả nước có gần 9 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (9 trường hợp tử vong); 90 trường hợp mắc bệnh viêm não vi rút (2 trường hợp tử vong); 31 trường hợp mắc thương hàn; 11,3 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng (4 trường hợp tử vong) và 16 trường hợp mắc hội chứng viêm da dày sừng bàn tay, bàn chân.
Trong tháng đã phát hiện thêm 516 trường hợp nhiễm HIV, nâng tổng số người nhiễm HIV của cả nước tính đến giữa tháng Ba năm 2013 lên 264,9 nghìn người, trong đó 108,8 nghìn trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS và 54,5 nghìn người đã tử vong do AIDS.
Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm mặc dù đã được tăng cường nhưng tình trạng vi phạm quy định vệ sinh an toàn thực phẩm và ngộ độc thực phẩm vẫn xảy ra tại một số địa phương. Riêng trong tháng Ba đã xảy ra 6 vụ ngộ độc, làm 245 người bị ngộ độc. Tính chung ba tháng đầu năm, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 15 vụ ngộ độc thực phẩm, làm 487 người bị ngộ độc, trong đó 4 trường hợp tử vong.
Hoạt động văn hóa, thể thao
Trong ba tháng đầu năm, công tác tuyên truyền nhiệm vụ chính trị kỷ niệm những ngày lễ lớn của dân tộc và đón xuân mới Quý Tỵ 2013 được tổ chức triển khai tốt tại các địa phương. Nhiều hoạt động văn hóa với nội dung phong phú thu hút được sự quan tâm, hưởng ứng của cộng đồng. Cùng với việc tổ chức tốt các hoạt động văn hoá, thông tin, công tác thanh tra, kiểm tra tại các địa phương đã được tăng cường nhằm bảo đảm môi trường lành mạnh trong hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hoá. Trong những tháng đầu năm, việc kiểm tra công tác tổ chức lễ hội tại các địa phương được tăng cường, nhất là kiểm tra tại các lễ hội lớn trên địa bàn cả nước.
Hoạt động thể dục, thể thao quần chúng ba tháng đầu năm, đặc biệt là dịp tết Nguyên đán, diễn ra sôi nổi khắp các tỉnh, thành phố trong cả nước. Các môn thể thao dân tộc, trò chơi dân gian cổ truyền đã thu hút sự tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân. Trong thể thao thành tích cao, ngành thể dục thể thao tổ chức thành công các giải quốc gia như: Cúp các câu lạc bộ Taekwondo toàn quốc tại Đà Nẵng; bóng chuyền trẻ các câu lạc bộ toàn quốc tại Hà Tĩnh; các cây vợt xuất sắc tại Thành phố Hồ Chí Minh; cờ tướng hạng nhất toàn quốc tại Thành phố Hồ Chí Minh; xe đạp nữ quốc tế tại Bình Dương; vô địch Billiard-Snooker tại Huế... Bên cạnh đó, đoàn thể thao Việt Nam cũng tham dự nhiều giải thể thao quốc tế và đã dành được 03 huy chương vàng tại: Giải Thể dục dụng cụ quốc tế Toyota, Giải vô địch Súng hơi châu Á (Trung Quốc) và Giải vô địch Đấu kiếm trẻ châu Á (Thái Lan) cùng 02 huy chương bạc tại: Giải vô địch Đi bộ châu Á (Nhật Bản) và World Cup Thể dục Dụng cụ (Pháp).
Tai nạn giao thông
Trong tháng 03/2013, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 732 vụ tai nạn giao thông, làm chết 653 người và làm bị thương 510 người. So với cùng kỳ năm 2012, số vụ tai nạn giao thông giảm 9,2%; số người chết giảm 13,5%; số người bị thương giảm 7,3%. Tính chung ba tháng đầu năm nay, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 2822 vụ tai nạn giao thông, làm chết 2578 người và làm bị thương 1811 người. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông tăng 2,8%; số người chết tăng 6,3%; số người bị thương giảm 10,7%. Bình quân một ngày trong ba tháng đầu năm, trên địa bàn cả nước xảy ra 31 vụ tai nạn giao thông, làm chết 29 người và làm bị thương 20 người.
Thiệt hại do thiên tai
Thiên tai xảy ra trong ba tháng đầu năm đã ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất và đời sống dân cư của nhiều địa phương trên địa bàn cả nước. Theo báo cáo sơ bộ, thiên tai đã làm 26 người chết và mất tích; hơn 60 ngôi nhà bị sập đổ, sạt lở, tốc mái; hơn 300 ha hoa màu bị hư hỏng. Các địa phương bị thiệt hại nặng là Quảng Bình với 22 người chết và mất tích; Tây Ninh 260 ha hoa màu bị hư hỏng; Cao Bằng 50 ngôi nhà bị sạt lở, tốc mái. Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong quý I ước tính khoảng 14 tỷ đồng. Tổng số tiền mặt cứu trợ các địa phương bị ảnh hưởng thiên tai là hơn 800 triệu đồng.
Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ
Trong quý I năm nay các cơ quan chức năng đã phát hiện 1719 vụ vi phạm quy định về vệ sinh môi trường, trong đó 797 vụ đã bị xử lý với tổng số tiền phạt trên 10 tỷ đồng, riêng trong tháng Ba đã phát hiện 805 vụ vi phạm, trong đó 421 vụ đã bị xử lý.
Tình hình cháy, nổ vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp. Trong tháng Ba, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 217 vụ cháy, nổ, làm 23 người chết, 22 người bị thương, thiệt hại khoảng 39 tỷ đồng. Trong ba tháng đầu năm, trên địa bàn cả nước xảy ra 635 vụ cháy, nổ nghiêm trọng, làm 82 người chết và bị thương, thiệt hại ước tính 93 tỷ đồng.
Khái quát lại, kinh tế-xã hội nước ta ba tháng đầu năm đạt được một số kết quả nhất định: Tăng trưởng cao hơn mức cùng kỳ năm trước; xuất khẩu tăng khá; lạm phát giữ ở mức thấp; công tác an sinh xã hội thường xuyên được quan tâm. Tuy nhiên, trước mắt còn rất nhiều khó khăn, thách thức mà nền kinh tế - xã hội nước ta phải đối mặt: Kinh tế thế giới chuyển biến chậm. Tổng cung và tổng cầu trong nước đều giảm. Tăng trưởng quý I năm nay chủ yếu do đóng góp của khu vực dịch vụ, nhưng mức tăng của khu vực này chưa phải là cao và thường ảnh hưởng của yếu tố tăng lương nên thiếu sự ổn định. Sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp còn nhiều khó khăn, khả năng tiếp cận vốn khó, tồn kho sản phẩm vẫn ở mức cao. Sức mua trong dân yếu. Dư nợ tín dụng thấp. Lãi suất tuy giảm nhưng vẫn là áp lực cho sản xuất. Lạm phát mặc dù không cao nhưng còn chịu nhiều tác động của các yếu tố bất thường từ thị trường bên ngoài cũng như thị trường trong nước. Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào điều kiện khách quan thời tiết, dịch bệnh. Tình hình trên cho thấy kinh tế quý II và cả năm 2013 hết sức khó khăn. Các cấp, các ngành và địa phương cần triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả Nghị quyết số 01/NQ-CP và Nghị quyết số 02/NQ-CP của Chính phủ, tập trung vào một số vấn đề trọng tâm sau đây:
Một là, đẩy mạnh tiến độ giải ngân nguồn vốn cho vay phục vụ sản xuất và xuất khẩu cùng những mục đích ưu tiên khác theo quy định. Tập trung giải quyết tháo gỡ khó khăn để mọi đối tượng được vay đều tiếp cận vốn dễ dàng, tiện lợi nhất. Quản lý, kiểm soát nguồn tiền gửi và tín dụng cho vay của các ngân hàng thương mại để dòng tiền được sử dụng đúng mục đích theo chức năng được quy định đối với ngân hàng, đồng thời giảm lãi suất cho vay tương ứng với giảm lãi suất huy động.
Hai là, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp ngành công nghiệp, cụ thể là: Rà soát lại những quy định về điều kiện được vay vốn để mở rộng hơn đối tượng được vay; tiếp tục hạ lãi suất cho vay; cải tiến chính sách thuế, nhất là thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu; cải thiện môi trường kinh doanh về thủ tục đăng ký kinh doanh, phát triển cơ sở hạ tầng, đơn giản và hiện đại hóa thủ tục hành chính, cải thiện môi trường pháp lý...; hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm, khai thác thị trường xuất khẩu, nhất là các thị trường mới tiềm năng.
Ba là: Các doanh nghiệp cần chủ động sắp xếp lại sản xuất, cơ cấu lại sản phẩm, mặt hàng phù hợp với nhu cầu thị trường trong và ngoài nước. Nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp theo hướng xây dựng chiến lược sản xuất kinh doanh lâu dài, cải tiến kỹ thuật, quy trình, nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, từ đó nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ trên cả thị trường trong nước và thị trường quốc tế.
Bốn là, chủ động nghiên cứu thay đổi cơ cấu cây con phù hợp, bảo đảm cho năng suất cao, chi phí hợp lý và có lãi. Làm tốt công tác phòng, chống hạn hán và dịch bệnh trên cây, con. Chủ động về nhân lực và thiết bị cần thiết, đồng thời xây dựng kế hoạch, phương án cụ thể để đối phó với thời tiết xấu xảy ra vào mùa mưa, bão, nhằm hạn chế ở mức thấp nhất thiệt hại trong sản xuất nông nghiệp cũng như thiệt hại về người và tài sản.
Năm là, tiếp tục đẩy mạnh công tác an sinh xã hội thông qua nhiều chương trình, hoạt động và sự kiện mang tính cộng đồng. Thực hiện có hiệu quả cao chính sách ưu đãi tín dụng để có nhiều hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ khó khăn được vay vốn; đồng thời tổ chức định hướng giúp đỡ các hộ gia đình sử dụng vốn vay đúng mục đích và hướng dẫn cách làm ăn, phát triển sản xuất, tạo việc làm, ổn định cuộc sống, vươn lên thoát nghèo bền vững. Tập trung quan tâm các xã, thôn bản khó khăn. Triển khai các hoạt động giám sát trong thực hiện chương trình giảm nghèo và thực hiện đầy đủ các chính sách hỗ trợ cho người nghèo.
Nguồn: Tổng cục thống kê
[1] Tỷ lệ giá trị hàng tồn kho so với giá trị sản xuất tháng 7/2012 là 90,2%; tháng 8/2012 là 87,1%; tháng 9/2012 là 88,2%; tháng 10/2012 là 73,2%; tháng 11/2012 là 68,9%; tháng 12/2012 là 72,7%; tháng 1/2013 là 70% và tháng 2/2013 là 93,3%.
[2] So với tháng trước, CPI tháng 3/2009 giảm 0,17%; tháng 3/2010 tăng 0,75%; tháng 3/2011 tăng 2,17%; tháng 3/2012 tăng 0,16%.
