
Tin tức
Lưu ý tác động từ tổng mức bán lẻ (02/4)
02/04/2013 - 22 Lượt xem
![]() |
TỐC ĐỘ TĂNG TMBL QUÝ I/2013 (Giá thực tế) - Đơn vị (%) |
Mặt khác tốc độ tăng của TMBL cũng tác động lớn đến xuất/nhập siêu, cán cân thanh toán, công nợ và tác động lớn đến lạm phát, đồng thời từ cơ cấu TMBL có thể đánh giá về sự đóng góp cũng như sự chuyển đổi nhu cầu của người tiêu dùng. Xét trên các ý nghĩa đó, có thể nhận diện về TMBL trên các góc độ khác nhau.
Thứ nhất, xét về quy mô, TMBL quý I/2013 ước đạt 636,2 nghìn tỷ đồng, tăng 11,7% so với cùng kỳ năm 2012, bình quân 1 người 1 tháng đạt khoảng 2,38 triệu đồng. Đối với nhóm 1 (nhóm có thu nhập thấp nhất) và nhóm 2 (nhóm có thu nhập thấp dưới trung bình) và một số vùng, miền, thì đây là mức quá cao; nhưng đối với một số địa bàn (nhất là các khu đô thị lớn), đối với nhóm 5 (nhóm thu nhập cao), thì đó là mức thấp.
Nếu nhìn nhận quý I là thời gian có 2 Tết Dương lịch, Tết Âm lịch, là mùa cưới hỏi, du lịch…, thì đây là con số không cao- và đó là một trong những biểu hiện sự co lại của tiêu dùng cuối cùng.
Thứ hai là xét về tốc độ tăng của TMBL so với cùng kỳ năm trước.
Tốc độ tăng ở biểu đồ trên là tốc độ tăng tính theo giá thực tế. Tốc độ tăng này chịu tác động lớn của yếu tố tăng giá. Muốn biết lượng tiêu dùng tăng, còn phải chia chỉ số phát triển TMBL cho chỉ số giá tiêu dùng bình quân kỳ này so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân quý I năm nay so với cùng kỳ năm trước là 106,91%. Theo đó, nếu loại trừ yếu tố tăng giá tiêu dùng bình quân, thì TMBL về lượng hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng quý I năm nay tăng 4,5%, thấp hơn tốc độ tăng 4,7% của cùng kỳ năm trước, thấp hơn tốc độ tăng của GDP.
Nếu chia cho tốc độ tăng dân số, thì bình quân đầu người tăng chưa tới 3,4%. Điều đó chứng tỏ tiêu dùng của quý I năm nay đã co lại. Cùng với sự co lại của tổng vốn đầu tư toàn xã hội, thể hiện ở tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội/GDP quý I năm nay thấp hơn nhiều so với tỷ lệ tương ứng của quý I năm trước (29,6%) so với 36,2%) nên việc co lại của TMBL đã làm cho tổng cầu bị co lại và đó là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tốc độ tăng GDP quý I năm nay.
Cũng chính sự co lại của tổng cầu đã góp phần đưa lại 2 kết quả khác đáng lưu ý. (1) Quý I năm trước nhập siêu, trong khi quý I năm nay xuất siêu gần nửa tỷ USD. (2) Tốc độ tăng giá tiêu dùng 3 tháng đầu năm nay thấp hơn cùng kỳ năm trước (sau 3 tháng tăng 2,39% so với tăng 2,54%; bình quân 3 tháng tăng 6,91% so với tăng 15,95%).
Tốc độ tăng của TMBL chậm lại do nhiều nguyên nhân. Có nguyên nhân quan trọng là thu nhập, sức mua có khả năng thanh toán của dân cư còn thấp, tăng chậm. Nông dân được lợi về giá thực phẩm tăng cao nhưng tỷ lệ hộ trống chuồng lại tăng và sản lượng sản phẩm không tăng. Nông dân được lợi về sản lượng lúa tăng, nhưng giá lương thực năm trước giảm 5,66% và 3 tháng đầu năm nay giảm tiếp 0,7% do giá xuất khẩu giảm mạnh (năm trước giảm tới 11%, 3 tháng năm nay giảm 10,2%); nếu Chính phủ không cho mua tạm trữ thì giá lương thực ở trong nước còn giảm sâu hơn nữa.
Giá chi phí đầu vào tăng, giá bán ra tăng chậm, trong khi giá hàng tiêu dùng phi lương thực tăng cao hơn. Tâm lý “tích cốc phòng cơ”, “thắt lưng buộc bụng” xuất hiện trở lại.
Thứ ba, về cơ cấu TMBL theo giá thực tế, đã có sự chuyển dịch khác nhau.
Theo loại hình kinh tế, khu vực nhà nước giảm tương đối sâu (giảm 9,4%), nên tỷ trọng trong TMBL của khu vực này đã giảm khá mạnh từ 12% trong quý I năm trước xuống còn 9,8% trong quý I năm nay.
Kinh tế tập thể tăng cao hơn (13,1%), nên tỷ trọng tăng nhẹ, nhưng tỷ trọng của khu vực này rất nhỏ (chiếm 1,1%). Kinh tế tư nhân tăng thấp hơn tốc độ tăng chung (9,1%), nên tỷ trọng đã giảm từ 35,6% xuống còn 34,8%, nhưng đó là tỷ trọng thuộc loại cao.
Kinh tế cá thể tăng khá cao (17,5%), nên tỷ trọng của khu vực này đã tăng từ 48,6% lên 51,1%; điều đó chứng tỏ đa số người tiêu dùng vẫn tập trung lớn vào chợ và cửa hàng nhỏ lẻ, nhất là trong điều kiện người tiêu dùng chắt chặt chi tiêu. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng trưởng cao nhất (34,5%) và tỷ trọng đã tăng từ 2,6% lên 3,2%; tỷ trọng này còn nhỏ, nhưng sẽ có xu hướng tăng lên cùng với theo cam kết mở cửa, hội nhập.
Theo ngành hoạt động, ngành thương nghiệp (thương mại hàng hóa thuần túy) vẫn thu hút người tiêu dùng nhiều nhất, mặc dù tốc độ tăng thấp hơn tốc độ chung (10,8%) và tỷ trọng giảm nhẹ (từ 77,9% xuống còn 77,3%).
Ngành khách sạn, nhà hàng vẫn thu hút chi tiêu thứ hai (chiếm 11,9%) và tăng với tốc độ cao hơn (15,4%), nhưng chủ yếu do yếu tố giá. Dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn thứ 3 (chiếm 9,9%) và tăng với tốc độ cao hơn tốc độ chung (15,3%).
Du lịch còn chiếm tỷ trọng nhỏ (0,9%) và tăng thấp nhất (4%), chủ yếu do nhu cầu chi tiêu cho du lịch trong điều kiện khó khăn bị co lại cả ở trong nước, cả ở số khách đến Việt Nam giảm (giảm 6,2%).
Nguồn: Chinhphu.vn
