
Tin tức
Đánh giá bổ sung tình hình kinh tế: xu hướng xấu vẫn tiếp tục (11/4)
11/04/2013 - 20 Lượt xem
Xu hướng tiếp tục xấu đi của các chỉ số quan trọng nhất
Tỷ trọng đầu tư xã hội so với GDP sụt giảm mạnh, từ 41,9% năm 2010 xuống 34,6% năm 2011 và 33,5% năm 2012. Trong bối cảnh cơ cấu và cơ chế vận hành nền kinh tế không có gì thay đổi, trong khi vốn đầu tư vẫn là yếu tố chủ yếu quyết định tăng trưởng (đóng góp 80% vào tăng trưởng GDP), tức là khi mô hình tăng trưởng vẫn là dựa chủ yếu vào vốn, thì sự sụt giảm vốn đầu tư chắc chắn kéo theo sự suy giảm lâu dài hơn của tăng trưởng và sự suy yếu đáng kể sức lực của các doanh nghiệp.
Ngoài ra, những chỉ số phản ánh mức độ rủi ro hay nguy cơ của hoạt động kinh doanh (nợ xấu, hàng tồn kho, lãi suất, tăng trưởng tín dụng, v.v.) đều ở cấp độ “tiêu cực” chưa từng thấy trước đó.
Để củng cố nhận định về xu hướng tiếp tục xấu đi của tình hình kinh tế vĩ mô năm 2012, cần xem xét thêm tình hình kinh tế quý 1/2013. Một số chỉ tiêu chủ yếu liên quan đến khả năng phục hồi tăng trưởng còn ảm đạm hơn. Hai yếu tố quyết định việc khôi phục tăng trưởng và duy trì ổn định vĩ mô – mức tăng trưởng tín dụng và thu chi ngân sách – đều yếu hơn hẳn các năm trước. Tăng trưởng tín dụng ba tháng đầu năm hầu như bằng không (0,03%), trong khi thu ngân sách chỉ đạt 16,7% dự toán năm, còn chi ngân sách, mặc dù Chính phủ quyết tâm đẩy mạnh rót tiền giải ngân đầu tư từ đầu năm, cũng chỉ đạt 18,5% dự toán năm. Tổng mức bán lẻ, chỉ số phản ánh sức mua, bị rơi xuống mức đáy, cho thấy cầu thị trường cực kỳ yếu. Nhất quán với xu hướng đó là hiện tượng CPI tháng 3 bị “âm” (-0,19%) sau khi có những mức tăng “hơi cao” nhưng đã đủ để gây tranh cãi ở hai tháng trước. Chỉ số sản xuất công nghiệp IIP chỉ tăng 4,9%, thấp xa mức tăng cùng kỳ năm trước (5,9%), v.v. Hoặc xuất hiện hiện tượng “lạ” ở Việt Nam – số doanh nghiệp và số vốn đăng ký mới có xu hướng giảm (-9,4% và -26,7% so quý 4/2012) trong khi số doanh nghiệp đóng cửa trong quý 1/2013 (15.300) “vươn lên” gần như ngang bằng với số doanh nghiệp đăng ký mới (15.700).
“Nghịch lý” phát triển hay là cái giá mà nền kinh tế phải trả
Bản chất của sự “nghịch lý” ở đây là những thành tích kinh tế vĩ mô đạt được trong năm 2012 đã phải trả bằng một cái giá rất lớn từ chi phí thực tế và hậu quả mà nó gây ra cho nền kinh tế.
Cái giá mà nền kinh tế phải trả để “hạ thấp lạm phát” trong năm 2012, ở cấp độ trực tiếp, thể hiện ở sự suy kiệt của nền kinh tế. Mức sụt giảm mạnh và đột ngột mức tăng cung tín dụng từ mức hơn 31% năm 2010 xuống còn 14% trong năm 2011 (giảm hơn 50%), đối với một nền kinh tế “nghiện nặng vốn đầu tư”, lại đang trong cơn ốm yếu, đã gây ra một cú sốc lớn. Xu hướng suy kiệt tiếp tục gia tăng nhanh trong năm 2012, khi Chính phủ chủ trương tiếp tục hạn chế tăng trưởng tín dụng (chỉ cố đạt mức 15 – 17%) để kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, nền kinh tế đã không thể hấp thụ nổi cả lượng tín dụng được chủ động hạn chế đó. Theo báo cáo cuối năm của NHNN, tín dụng chỉ tăng 8,91%. Hạn chế tín dụng để chống lạm phát là đúng. Nhưng việc thắt chặt tín dụng đột ngột khi nền kinh tế đang ốm yếu đã buộc nó phải trả giá đắt. Lực lượng doanh nghiệp – cơ sở chủ yếu của tăng trưởng, lực lượng chủ lực của phát triển kinh tế thị trường, sản phẩm quan trọng nhất của công cuộc đổi mới – trở thành “vật hy sinh” cho việc duy trì quá lâu một mô hình tăng trưởng không phù hợp – mô hình tăng trưởng lệ thuộc vào vốn, mô hình đánh đổi tốc độ tăng trưởng với lạm phát.
Tình hình kinh tế quý 1/2013 phản ánh chỉ báo triển vọng khôi phục ổn định và phục hồi tăng trưởng không rõ ràng của nền kinh tế trong năm 2013. Những dự báo về khả năng “thoát đáy” của nền kinh tế có thể bắt đầu từ giữa năm 2013 đang trở nên xa vời hơn. |
Thương mại năm 2012 cũng có diễn biến khác thường: từ mức nhập siêu hơn 9 tỉ USD năm 2011 chuyển thành xuất siêu gần 0,6 tỉ USD năm 2012. Nhưng xuất siêu năm 2012 là một “thành tích” bất thường: đối với một nền kinh tế lệ thuộc nặng nề vào nhập khẩu đầu vào, sự xoay chuyển tình thế quá đột ngột, nhất là khi bản thân nó đang bị ốm nặng kéo dài, rõ ràng là một chỉ báo tiêu cực. Nó chỉ có một giá trị tích cực vừa phải trong khi tính chỉ báo về thực trạng suy yếu của nền kinh tế, của các doanh nghiệp lại là khía cạnh trội bật: đến mức không thể hấp thụ đầu vào. Ai cũng biết rằng một nền kinh tế phải chịu mức độ rủi ro cao khi nó bị lệ thuộc trường kỳ vào nhập khẩu. Mức độ rủi ro sẽ cao gấp bội khi đó là sự lệ thuộc nặng nề vào một thị trường duy nhất. Mà cấu trúc kinh tế của ta, như nhiều nghiên cứu chỉ ra, đã chuyển từ sự lệ thuộc nhập khẩu đầu vào từ thị trường thế giới nói chung sang lệ thuộc ngày càng nặng vào một thị trường – Trung Quốc. Đặc biệt, năm 2012, khi nền kinh tế thực sự gặp nhiều khó khăn và chuyển sang xuất siêu với cả thế giới thì thật lạ lùng, nhập siêu từ Trung Quốc lại tăng vượt trội – đạt mức kỷ lục 16,7 tỉ USD. Không thể coi đây là một tình huống ngẫu nhiên. Cũng không thể cho rằng nó phản ánh một xu hướng bình thường của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đây là một chỉ báo về một vấn đề có tầm quan trọng chiến lược, do đó, cần được thay đổi nhanh và cơ bản.
Điều hành làm gia tăng bất ổn, suy yếu lòng tin thị trường
Nguyên nhân của tình hình nói trên là ở phương thức điều hành. Đặc trưng nổi bật của cách điều hành nền kinh tế vĩ mô thời gian qua (có thể tính từ năm 2007, khi nền kinh tế nước ta gia nhập WTO) là nặng về sử dụng các biện pháp hành chính, giật cục, thiếu nhất quán và khó dự báo mà gần như bỏ qua các biện pháp kinh tế thị trường. Các loại giá cả – giá xăng dầu, giá điện, giá than, lãi suất, v.v. – phạm trù trung tâm của kinh tế thị trường – được điều hành hầu như hoàn toàn theo cách hành chính – mệnh lệnh. Xu hướng chung là nền kinh tế càng bất ổn thì cách điều hành hướng vào xử lý tình thế ngắn hạn như vậy càng áp đảo. Do hiệu quả đạt được của cách điều hành này thấp nên chúng càng làm gia tăng tình trạng mất lòng tin của thị trường.
Một đặc trưng – rủi ro đáng kể khác do tình trạng thiếu công khai minh bạch về thông tin và do thiếu thông tin gây ra, làm suy yếu cơ sở khoa học và thực tiễn đáng tin cậy cho việc hoạch định chiến lược và chính sách. Không có nguồn số liệu đúng và đủ, không thể đưa ra đánh giá đúng tình hình, không thể dự báo chính xác các xu hướng, do đó không thể đưa ra các quyết sách, chủ trương, chính sách và giải pháp đúng được. Thừa nhận thực tế đó cũng có nghĩa là thừa nhận một nguy cơ lớn mà nền kinh tế nước ta đang đối mặt: rủi ro chính sách là quá nghiêm trọng. Tại thời điểm hiện nay, có thể nêu hai rủi ro “thông tin và số liệu” mang tính sinh tử. Thứ nhất là mức độ tin cậy thấp của các số liệu thống kê nợ xấu và số liệu tồn kho bất động sản. Thứ hai là những con số được lắp đặt theo công thức có sẵn (những con số “vô cảm”) về việc làm và thất nghiệp hay ở một mức đáng được thảo luận là các nhóm số liệu phản ánh tương quan giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng GDP vài năm gần đây.
Nguồn: SGTT
