Năm 2012 và 3 tháng đầu năm 2013, Việt Nam xuất siêu ở mức khiêm tốn, nhưng tháng 4 vừa qua đã “đột ngột” quay lại nhập siêu cao. Để tiến tới xuất siêu bền vững trong những tháng tới, cần nhận diện lại tiềm năng của từng khu vực doanh nghiệp hiện nay.
Để đánh giá xác thực tiềm năng của từng khu vực doanh nghiệp DN, nhiều chuyên gia thường loại trừ mặt hàng dầu thô, bởi 2/3 khối lượng mặt hàng này thuộc dự án Vietsovpetro, một dự án hợp tác đặc biệt, ra đời trước khi Việt Nam có Luật Đầu tư nước ngoài (12/1987) tại Việt Nam, và thực tế từ đó đến nay,dự án này không nằm trong danh mục các dự án DN Nga đầu tư ở Việt Nam theo pháp luật hiện hành. nhiều ý kiến cho rằng, việc ghi tất cả khối lượng dầu thô xuất khẩu cho khu vực FDI như lâu nay là không chính xác, và vì thế, coi khu vực DN có vốn đầu tư nước ngoài (DN FDI) luôn xuất siêu như lâu nay cũng có phần chưa hợp lý. Số liệu trong bảng dưới đây cho thấy, khu vực DN này xuất siêu thực sự mới từ năm 2012.
Những tiến bộ đáng kể
Bảng số liệu dưới đây cho thấy, việc cân bằng giá trị xuất - nhập khẩu, phấn đấu vươn lên xuất siêu đã được cả hai khu vực DN (DN 100% vốn trong nước và DN FDI) kiên trì thực thi trong thời gian qua, đặc biệt trong gần 5 năm trở lại đây.
Theo đó, riêng khu vực DN 100% vốn trong nước, kim ngạch xuất khẩu mỗi năm một tăng và tỷ lệ nhập siêu từng bước thu hẹp. Cụ thể, năm 2009 nhập siêu còn chiếm 64% kim ngạch xuất khẩu, nhưng năm 2012 đã giảm xuống còn 28,5%.
Xuất khẩu của khu vực DN FDI còn tăng trưởng mạnh mẽ hơn, năm 2009 kim ngạch xuất khẩu còn thua kém 3 tỷ USD so với khu vực DN 100% vốn trong nước, vậy mà năm 2012 đã có kim ngạch xuất khẩu lớn gấp 1,5 lần. Hay “đo đạc” theo cách khác, kết quả xuất khẩu 4 tháng đầu năm 2013 của DN 100% vốn trong nước mới bằng ½ kết quả của năm 2009, trong khi DN FDI đã làm gần bằng cả năm 2009 (không tính dầu thô). Như vậy là, từ năm 2012 khu vực DN FDI đã tạm biệt với nhập siêu và bắt đầu chuyển sang xuất siêu.
Bước nhảy vọt của DN FDI là nhờ 2 “quả đấm thép”, đó là những dự án sản xuất linh kiện điện tử - máy tính và những dự án sản xuất điện thoại di động (kể cả linh kiện). Năm 2011, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng điện tử - máy tính mới ở mức hơn 4 tỷ USD, năm 2012 tăng lên gần 8 tỷ USD, và 4 tháng 2013 đạt trên 3 tỷ USD. Ấn tượng hơn, mặt hàng điện thoại xuất khẩu năm 2011 đạt gần 7 tỷ USD, năm 2012 vọt lên đạt gần 13 tỷ USD, và riêng 4 tháng 2013 đã vươn tới gần con số 6 tỷ USD, nghĩa là gần bằng cả năm 2011…Theo đà này, khu vực DN FDI sẽ còn tạo nên những ấn tượng xuất siêu mạnh mẽ hơn nữa trong năm 2013.
Tiến tới cả nước xuất siêu
Xuất siêu năm 2012 chủ yếu là nhờ sự đột phá của một vài dự án FDI nêu trên. Nhưng cần cảnh báo rằng, xuất khẩu càng tăng mạnh thì nhập khẩu càng lớn, cụ thể như năm 2012 xuất khẩu hàng điện tử - máy tính đạt 7,9 tỷ USD, nhưng nhập khẩu linh kiện đã lên tới trên 13 tỷ USD; tương tự xuất khẩu điện thoại di động (và linh kiện) đạt 12,6 tỷ USD, thì nhập khẩu đã lên tới gần 5 tỷ USD… Rõ ràng để khu vực DN FDI duy trì được khả năng xuất siêu một cách vững chắc cần thực thi mạnh mẽ mục tiêu nội địa hóa bằng việc phát triển công nghiệp hỗ trợ.
Còn khu vực DN 100% vốn trong nước bao giờ xuất siêu?. Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, đó là tùy thuộc vào khả năng thu hẹp nhập siêu một số mặt hàng quan trọng như xăng - dầu nhờn, phân bón - thuốc trừ sâu, thức ăn chăn nuôi, sắt thép…
Năm 2012 xuất khẩu xăng dầu (từ Nhà máy Dung Quất) đạt gần 2 tỷ USD, nhưng nhập khẩu các loại xăng - dầu nhờn lại ở mức 9 tỷ USD; xuất khẩu sắt thép đạt trên 1,5 tỷ USD thì nhập khẩu mặt hàng này lên tới 6 tỷ USD…; Trong khi nhiều mặt hàng chỉ nhập mà không có xuất hoặc xuất khẩu với kim ngạch không đáng kể như phân bón, thuốc trừ sâu (trên 2 tỷ USD năm 2012), thức ăn chăn nuôi (2,5 tỷ USD năm 2012), tân dược (gần 2 tỷ USD năm 2012), lúa mì (770 triệu USD)…. Đồng thời đáng lưu ý, xuất nhập khẩu các mặt hàng nông – lâm - thuỷ hải sản tuy đang có thặng dư đáng kể, nhưng kim ngạch nhập khẩu nguyên liệu đã chiếm tới khoảng 30% kim ngạch xuất khẩu (chưa kể chi phí xăng dầu, phân bón, thuốc trừ sâu nhập khẩu)…
Thực tế nêu trên cho thấy, để có thặng dư ngoại thương bền vững, nền kinh tế Việt Nam cần tiến tới “làm chủ” những mặt hàng nguyên nhiên liệu mang tính chiến lược nêu trên (xăng dầu, sắt thép, phân bón, thức ăn chăn nuôi, tân dược…).
Những bài học về đầu tư thời gian qua đều khẳng định, đã đến lúc cần có cam kết rõ ràng từ các nhà đầu tư về nguồn nguyên nhiên liệu khi xem xét cấp giấy chứng nhận đầu tư cho một dự án. Chẳng hạn, những nhà máy lọc dầu hiện đang được xây dựng, rồi sẽ phải “sống” bằng nguồn dầu nhập khẩu không nhỏ… Vì vậy, việc cân đối giữa nhập khẩu và xuất khẩu, việc cam kết nguồn nguyên nhiên liệu phải nhập khẩu cho từng dự án cũng cần được xem xét kỹ lưỡng ngay từ khi cấp phép, bên cạnh những yêu cầu về môi trường, về công nghệ xanh, sạch…
Xuất siêu được đánh giá là một trong những động lực phát triển kinh tế quốc gia nhưng để vươn tới mục tiêu xuất khẩu bền vững, mọi dự án đầu tư cần phải đạt chất lượng cao, có tầm nhìn xa ngay từ khâu lập, thiết kế dự án./.
Nguồn: VEN