
Tin tức
Lạm phát - bài học nhìn từ chính sách (11/7)
11/07/2013 - 16 Lượt xem
Ám ảnh từ thời siêu lạm phát
Mới đây, một nhóm nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR) có nghiên cứu quan trọng về lạm phát ở Việt Nam 20 năm qua. VEPR đã chỉ ra tính ỳ của lạm phát ở Việt Nam và “lạm phát trong quá khứ là nhân tố quan trọng nhất quyết định lạm phát hiện tại và do đó, lạm phát thường có xu hướng kéo dài ở hầu hết các nhóm hàng trong giỏ CPI. Đồng thời, lạm phát cao cũng là nguyên nhân gây biến động giá cả”, nhóm nghiên cứu kết luận.
Phân tích của VEPR cũng ngầm ý rằng, khi lạm phát đã tăng thì rất khó kiểm soát, do vậy, lạm phát có xu hướng cao kéo dài.
Dữ liệu của VEPR cho thấy, Việt Nam đã phải chịu mức lạm phát rất cao trong những năm cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90 thế kỷ trước. Để ứng phó, sau này, các chính sách vĩ mô thận trọng, chính sách quản lý tỷ giá chặt chẽ đã được thực thi và đã giúp giảm mạnh lạm phát. Tỷ lệ lạm phát thấp được duy trì trong giai đoạn 2000 - 2003, nhưng cũng trong thời kỳ này, tốc độ tăng cung tiền và tín dụng cũng như mức phá giá VND khá cao. Và, lạm phát bắt đầu tăng trở lại từ năm 2004.
Tiếp đó, Việt Nam lại trải qua 2 lần chỉ số lạm phát biểu hiện “hai con số” vào các năm 2008, 2010 và 2011. Trong cả hai thời kỳ này, lạm phát chịu tác động chủ yếu từ tăng giá lương thực, thực phẩm, với mức biến động cao nhất, tần suất biến động cao nhất, thời gian ổn định ngắn nhất và… tính ỳ cao nhất. Ký ức và tính ỳ của lạm phát đã khiến người dân luôn nghĩ rằng: rồi lạm phát sẽ lại xảy ra.
Cũng theo VEPR, lạm phát tại Việt Nam biến động mạnh hơn nhiều so với các nước là bạn hàng xuất - nhập khẩu, chứng tỏ các yếu tố trong nước đóng vai trò quan trọng. Đã vậy, “Chính phủ có nỗ lực chống lạm phát nhưng thường bị động và chậm”, nghiên cứu của VEPR bình luận.
Tốc độ điều chỉnh của thị trường tiền tệ rất chậm: phải mất nhiều thời gian để các thị trường điều chỉnh sau cú sốc và những thay đổi chính sách không hợp lý. Một nhận xét quan trọng của VEPR là “không có bằng chứng rõ ràng về việc giá của các mặt hàng chịu sự kiểm soát giá của Chính phủ ổn định hơn các ngành khác”.
Chính sách ra chậm khó neo lạm phát thấp
Nhìn lại diễn biến lạm phát 20 năm qua, TS.Võ Trí Thành - Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu và quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho rằng, Việt Nam đã phải chịu “những nỗi đau chính sách”. Với một số chính sách lúc mới được ban hành với mục đích để “hạ cánh mềm” thì lại thành “hạ cánh cứng”.
Theo ông Thành, từ sau 2007, Việt Nam với sự hồ hởi hội nhập đã có hệ thống chính sách thúc đẩy tăng trưởng chủ yếu dựa vào việc mở rộng tín dụng và đầu tư, đặc biệt đầu tư công. Dòng vốn ngoại ồ ạt đổ vào nhưng không kịp thời có những giải pháp trung hòa, khiến cung tiền tăng mạnh. Cộng thêm biến động giá trên thị trường thế giới, nhưng trong nước vẫn “neo chặt” tỷ giá nên chúng ta đã nhập khẩu lạm phát.
Từ năm 2011, Chính phủ xác định tập trung các biện pháp và chính sách nhằm ổn định vĩ mô, từng bước phục hồi tăng trưởng, đồng thời tiến hành những cải cách và tái cấu trúc quan trọng. Các biện pháp hỗ trợ cho DNNVV hoạt động kinh doanh nông nghiệp, đảm bảo an sinh xã hội đã và đang được ban hành, triển khai thực hiện.
Tuy nhiên, cách ban hành chính sách vẫn bị động, có tính chất đối phó hoặc xử lý tình huống, sự phối hợp chính sách tuy được xác định nhưng vẫn chưa đủ và vẫn thiếu đồng bộ.
Điểm lại các chính sách và diễn biến lạm phát, bài học quan trọng nhất là phải khẳng định thông điệp cương quyết về ổn định kinh tế vĩ mô, đồng thời phải xây dựng hệ thống những chính sách nhất quán; bên cạnh đó, việc triển khai cũng cần có sự phối hợp và trách nhiệm giải trình của các cơ quan Chính phủ liên quan.
TS.Võ Trí Thành cho rằng, cần phải sử dụng hợp lý các biện pháp hành chính, phải chấp nhận phí tổn nếu cần, tăng trách nhiệm giải trình và “cần có cả những điều kiện rút bỏ những chính sách không tốt”.
Nguồn: Thời báo ngân hàng
