
Tin tức
Phòng vệ thương mại: "Vũ khí" nhiều nhưng sử dụng ít (25/7)
25/07/2013 - 20 Lượt xem
2 vụ yêu cầu điều tra để tự vệ, 1 vụ kiện chống bán phá giá là kết quả việc sử dụng công cụ phòng vệ thương mại mà các DN Việt Nam đã chủ động phản ứng trong quan hệ thương mại quốc tế hơn 10 năm qua. Con số tổng kết nhỏ được TS. Đinh Thị Mỹ Loan, Chủ tịch Hội đồng Tư vấn Phòng vệ thương mại, Trung tâm WTO (VCCI) đưa ra, đã cho thấy thực tế đáng buồn: ý thức sử dụng các công cụ tự bảo vệ của DN Việt Nam còn quá yếu kém.
Hệ thống luật pháp đã sẵn sàng
“Chúng ta đã có vũ khí giắt thắt lưng nhưng ít khi dám rút ra dùng”, bà Loan ví von như vậy để nhấn mạnh rằng: với hệ thống luật pháp hiện có đã đủ để tiếp nhận các vụ DN trong nước sử dụng biện pháp phòng vệ thương mại.
Mặc dù hệ thống pháp luật quốc tế đã mở ra nhiều điều khoản liên quan đến phòng vệ thương mại thông qua các Hiệp định trong WTO; các pháp lệnh, văn bản hướng dẫn trong nước cũng đã được xây dựng; các thiết chế hành chính như cơ quan điều tra, cơ quan ra quyết định, đã được hình thành. Song, việc tận dụng hệ thống pháp luật này để khởi xướng các biện pháp phòng vệ thương mại vẫn hiếm hoi.
Bà Nguyễn Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO (VCCI) nhấn mạnh, đây là thực trạng đáng lo ngại, đặc biệt trong bối cảnh tiến trình mở cửa và hội nhập thị trường thế giới ngày càng sâu rộng khiến cho sức ép cạnh tranh từ hàng nhập khẩu tại thị trường trong nước ngày càng lớn.
Cùng chung lo ngại với bà Trang, TS. Đinh Thị Mỹ Loan lưu ý một xu hướng mới trong quan hệ giao thương quốc tế hiện nay. Đó là việc sử dụng công cụ phòng vệ thương mại đang được các quốc gia đem ra “dựng rào chắn hợp lệ” ngày càng nhiều. Đặc biệt, ở các quốc gia đang phát triển, các biện pháp phòng vệ thương mại ngày càng được ưa chuộng, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế ở trong giai đoạn khủng hoảng, cạnh tranh gay gắt khiến các nhà sản xuất trong nước ngày càng ý thức về việc phải sử dụng các biện pháp này để tự vệ.
Đồng thời, sự “biến mất” của các công cụ “rào chắn” truyền thống như thuế thông quan, giấy phép nhập khẩu (hạn ngạch)… theo trào lưu FTA cũng khiến các hàng rào bảo hộ sản xuất trong nước thưa dần.
Riêng đối với thị trường Việt Nam, bà Loan chỉ ra nguy cơ xâm lấn của hàng hóa, từ một số nước lân cận, thực sự đang bán phá giá, được trợ cấp hoặc xuất khẩu ồ ạt vì nhiều mục đích như: giải quyết tồn kho trong nước, chiến lược cạnh tranh không lành mạnh để chiếm lĩnh thị trường… có khả năng đe dọa tới các nhà sản xuất nội địa. Điển hình là nhiều loại hàng hóa “top 5” nhập khẩu vào Việt Nam (kim loại cơ bản; hóa chất; nhựa, cao su; máy móc và thiết bị điện; dệt may) từ các nước láng giềng đang là đối tượng của nhiều vụ kiện ở các thị trường khác trên thế giới.
Đứng đầu là Trung Quốc, quốc gia nhập khẩu hàng hóa lớn nhất vào Việt Nam hiện nay nằm trong danh sách “top 10” nước bị kiện chống bán phá giá và “top 10” nước bị kiện chống trợ cấp. Ngoài ra, nhiều quốc gia khác cũng đang là nguồn hàng hóa nhập khẩu lớn của nước ta như Hàn Quốc, Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản, EU… và một số nước láng giềng của Việt Nam, như Đài Loan, Thái Lan, Indonesia… “Không có gì đảm bảo các nước đó không bán hàng phá giá hoặc cạnh tranh không lành mạnh vào Việt Nam”, bà Loan nhấn mạnh.
Chỉ chờ doanh nghiệp vào cuộc
Không muốn bỏ phí công cụ hữu ích là các biện pháp phòng vệ thương mại, nên trong suốt thời gian qua, các cơ quan quản lý nhà nước đã mở nhiều lớp tập huấn về kỹ năng sử dụng các công cụ này. Tuy nhiên quá trình “phá băng” nhận thức cho cộng đồng DN vẫn kéo dài cho tới nay. Nhiều DN thậm chí còn thụ động chờ đợi sự hỗ trợ từ phía Nhà nước trước sự xâm lấn ồ ạt của hàng hóa nhập khẩu gây ảnh hưởng tới sản xuất trong nước.
Ông Lê Sỹ Giảng, Phó trưởng Ban Phòng vệ thương mại, Cục quản lý cạnh tranh (Bộ Công Thương) khẳng định, các cơ quan quản lý chỉ có thể tư vấn và hỗ trợ cho DN để họ tự sử dụng một cách hiệu quả các biện pháp phòng vệ thương mại. Trong quá trình thụ lý các vụ việc này, cơ quan quản lý sẽ giải quyết một cách công bằng, còn để sử dụng công cụ này một cách có hiệu quả, chỉ có thể do sự chủ động của mỗi DN.
Tuy nhiên, ông Giảng cũng khuyến cáo các DN cần cân nhắc nội lực và khả năng tài chính trước khi quyết định có tham gia vào một vụ kiện phòng vệ thương mại hay không. Ông Giảng phân tích, theo đuổi một vụ kiện đòi hỏi chi phí lớn, thời gian thường kéo dài ít nhất là 1 năm. Nếu thành công thì mức điều chỉnh thuế có thể kéo dài chỉ trong vòng 5 năm, DN cần căn cứ vào những yếu tố đó để cân nhắc kĩ xem với lợi ích đạt được như vậy có xứng với thời gian và công sức, chi phí bỏ ra để theo đuổi vụ kiện hay không.
Trước tình hình hàng hóa nhập khẩu với khối lượng ngày càng nhiều và đa dạng, các chuyên gia của Cục Quản lý cạnh tranh và Trung tâm WTO cũng đưa ra lời khuyên các hiệp hội ngành hàng cần nhanh chóng rà soát tình hình nhập khẩu hàng hóa để xem xét nguy cơ đe dọa tới sản xuất của ngành hàng mình và sẵn sàng cho kế hoạch khởi kiện nếu cần thiết.
Tháng 5 vừa qua, sự kiện Công ty TNHH Posco VST và Công ty CP Hòa Bình Inox nộp đơn lên Cục Quản lý cạnh tranh kiện chống bán phá giá mặt hàng thép không gỉ cán nguội nhập khẩu từ Trung Quốc, Đài Loan, Malaysia và Indonesia đã đánh dấu bước ngoặt lần đầu tiên các DN Việt Nam chính thức kiện chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu. Đây có thể xem là cột mốc cho thấy sự trưởng thành của DN trong nước trong quan hệ thương mại quốc tế. Đồng thời, sự kiện này cũng báo hiệu sắp tới các DN Việt Nam sẽ chủ động hơn trong việc dựng hàng rào bảo vệ sản xuất. |
Nguồn: Thời báo Ngân hàng
