
Tin tức
Hai dòng chảy song hành (15/8)
15/08/2013 - 15 Lượt xem
Thực tế không phải như vậy. Cho dù chỉ số tồn kho của ngành này đã giảm nhưng tại thời điểm 1-7-2013 vẫn tăng 8,8% so với cùng thời điểm năm trước. Hay nói một cách khác thì mức tăng trưởng xuất khẩu của ngành công nghiệp chế biến tăng, và đột biến ở một số ngành, dường như trái ngược hẳn với tình hình sản xuất ngưng trệ và tồn kho trong nước. Bởi tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của ngành công nghiệp chế biến có đến ba phần tư là từ khối FDI, nơi mà xuất khẩu phụ thuộc phần lớn vào nguyên liệu nhập khẩu, còn tỷ lệ nội địa hóa hầu như rất thấp.
Hơn nữa, khối FDI chỉ chiếm 30% giá trị sản xuất công nghiệp cả nước nên nền sản xuất thực không được hưởng lợi nhiều từ sự tăng trưởng nơi đây. Do vậy nhận định của Bộ Công Thương về tình hình công nghiệp bảy tháng là “cơ cấu hàng xuất khẩu đã đa dạng và tăng dần tỷ trọng xuất khẩu hàng công nghệ cao. Một phần năm tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam là loại hàng hóa này”, khó có thể được xem là chính xác về tình hình sản xuất, xuất khẩu công nghiệp của Việt Nam.
Mặc dù vậy cũng phải thừa nhận rằng khối FDI đã khai sinh ra một số ngành xuất khẩu ở Việt Nam nên sự phụ thuộc vào FDI ở những ngành này gần như là tuyệt đối. Đó là xuất khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện (95%), điện thoại các loại và linh kiện (95%), máy ảnh, máy quay phim (98%) hay máy móc, thiết bị phụ tùng khác (91%). Năm 2012 có tới gần 2.900 doanh nghiệp FDI có kim ngạch xuất khẩu từ 1 triệu đô la Mỹ trở lên, thậm chí có doanh nghiệp xuất khẩu tới 12,5 tỉ đô la như Samsung Electronics Vietnam nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn chưa thể hãnh diện với lượng doanh nghiệp triệu đô như vậy.
Ở phía ngược lại chưa có thống kê nào cho thấy số doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu triệu đô trở lên như vậy cỡ bao nhiêu. Hoặc sức lan tỏa của các doanh nghiệp FDI triệu đô đến đâu khi nhiều mặt hàng, ví dụ như sản phẩm điện tử linh kiện của khối FDI tăng đến 67,5% nhưng chỉ số tồn kho của ngành công nghiệp sản xuất dây, cáp điện và dây dẫn điện tử (mang tính phụ trợ cho nhiều sản phẩm điện tử) của các doanh nghiệp Việt tăng đến gần 50% so với cùng kỳ.
Doanh nghiệp FDI đầu tư vào Việt Nam luôn được chào đón. Và những ưu đãi đầu tư thể hiện sự chào đón đó có lẽ đã được các cơ quan quản lý tính toán cân nhắc sự được mất để đổi lại sự có mặt của các dự án FDI trong những thời điểm cụ thể vừa qua. Có điều sẽ không chỉ có những cái mất đếm được như chuyện thất thu ngân sách địa phương, ví dụ như trường hợp Bắc Ninh mất 226 tỉ đồng mỗi quí trong hai quí đầu năm 2013 (theo báo cáo ước thực hiện dự toán ngân sách sáu tháng đầu năm của tỉnh Bắc Ninh) khi hai công ty Samsung chuyển sang mô hình doanh nghiệp chế xuất với ưu đãi hầu như toàn bộ. Kéo theo nó là hàng loạt công ty vệ tinh “ăn theo” hoạt động xuất khẩu của Samsung cũng không phải nộp một đồng thuế nào.
Thực tế này cho thấy sự liên kết chặt chẽ, đến mức cát cứ, về lĩnh vực sản xuất trong cộng đồng các doanh nghiệp FDI. Và vì thế càng ngày càng khó nghĩ đến sức lan tỏa của khu vực FDI đến sự phát triển công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam. Và sự phát triển đột biến của sản xuất công nghiệp trong khối FDI và nền sản xuất công nghiệp còn èo uột trong nước sẽ song song tồn tại bên nhau như hai dòng chảy song hành, chưa biết đâu là điểm gặp.
Nguồn: TBKTSG
