
Tin tức
Khai thác tài nguyên: Hạn chế hay đóng cửa? (28/8)
28/08/2013 - 35 Lượt xem
Theo đề xuất của Bộ Tài chính lên Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại phiên họp hôm 21/8, sẽ có một số điều chỉnh trong quy định về mức thuế suất tài nguyên đối với các loại khoáng sản và mức tăng sẽ dao động trong biên độ trên dưới 7%, tùy từng loại tài nguyên.
Tăng bao nhiêu?
Trong đó, mức điều chỉnh tăng cao nhất là Vonfram, Antimoan và vàng, lần lượt từ 10% lên 18% và 15% lên 22%. Các tài nguyên khác như sắt, sẽ tăng từ 10% lên 13%; titan tăng từ 11% lên 16%; đồng tăng từ 10% lên 15%; niken tăng từ 10% lên 12%; đất làm gạch tăng từ 7% lên 10%; cát tăng từ 10% lên 11%; đá, sỏi tăng từ 6% lên 7%; apatit tăng từ 3% lên 5%; than tăng từ 5-7% lên tương ứng là 7-9%; nước mặt dùng cho sản xuất nước sạch có thuế suất đề nghị 5% và nước sử dụng dưới đất là 5%, nước dùng cho sản xuất thủy điện từ 2% tăng lên 4%. .
Dự kiến, nếu thuế suất được điều chỉnh theo mức tăng nêu trên thì số thu thuế tài nguyên tăng lên khoảng 2.279 tỉ đồng, tức nguồn thu ngân sách sẽ có thêm một khoản không nhỏ, tương đương bằng ½ số ngân sách mà Nhà nước sẽ phải bỏ ra chi bổ sung cho 2,4 triệu người lao động về hưu trong đợt điều chỉnh lương tháng 5/2011 (ngân sách Nhà nước chi ra cho đợt này ước khoảng 4.000 tỉ đồng và 4.000 tỉ đồng còn lại thuộc trọng trách của Quỹ bảo hiểm xã hội – Theo thống kê của Vụ bảo hiểm xã hội (Bộ Lao động Thương binh và Xã hội).
Khó cỡ nào?
Ngay sau đề xuất của Bộ Tài chính, Cty TNHH Vàng Phước Sơn (PSGC) và Cty TNHH Khai thác Vàng Bồng Miêu (BMGMC) đã có văn bản kiến nghị gửi Bộ Tài chính cho rằng việc áp dụng chính sách tăng thuế suất tài nguyên với ngành khoáng sản vàng lên 25% sẽ "ảnh hưởng đến tương lai của ngành khai khoáng cũng như tác động tiêu cực tới kinh tế, đầu tư, môi trường, vấn đề an sinh xã hội". Đây là hai Cty thuộc Tập đoàn Besra, một DN quốc tế có trụ sở tại Canada, đã đầu tư vào ngành công nghiệp khai khoáng VN từ năm 1993 và là một trong những đóng thuế về khai khoáng lớn nhất tại VN, tính đến thời điểm hiện nay. (Số liệu tính đến tháng 2/2013, Bersa đã đóng thuế ngân sách ước khoảng 719 tỉ đồng). Ngoài 2 mỏ Phước Sơn (đang bị áp thuế suất 15%) và mỏ Bồng Miêu (đang bị áp thuế suất 3% do thời gian khai thác đã lâu và trữ lượng không còn nhiều), Besra hiện còn nắm giữ 75% cổ phần dự án mỏ vàng Tiên Thuận ở huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định và đang thăm dò dự án này.
Besra cũng đang sở hữu một số mỏ tại Malaysia và Philippines. Tuy nhiên, các dự án này vẫn đang phải đầu tư nên trữ lượng nguồn khoáng khai thác được tại VN không đủ bù đắp chi phí tài chính, chi phí quản lý, khai thác của DN đang lỗ. Tính đến tháng 3/2013, lỗ lũy kế của Besra lên đến hơn 90 triệu USD. Cùng với đó, tại hai mỏ vàng chính ở VN, Besra đang có 1.600 nhân công lao động chủ yếu tại địa phương. Điều này đang được cho là áp lực để DN quay trở lại… làm áp lực với các hoạch định chính sách. Ông Lê Minh Kha -Tổng giám đốc hai Cty liên doanh thuộc Besra tại Quảng Nam đã xác nhận sẽ có một số khó khăn phát sinh nêu Nhà nước tăng thuế suất khai thác, chế biến vàng lên 22% cụ thể: Tác động tiêu cực và trực tiếp tới nguồn thu thuế của tỉnh Quảng Nam, khả năng mất công ăn việc làm của người lao động, mất các tiện ích về cơ sở hạ tầng và phát triển cộng đồng do DN tài trợ, các nhà thầu, nhà cung ứng nguyên, vật liệu địa phương không thể tiếp tục làm việc cùng với Besra để duy trì nguồn thu cho ngân sách cũng như giải quyết nguồn lao động tại chỗ (tức các nhà sản xuất công nghiệp hỗ trợ ngay tại địa bàn và người lao động gián tiếp tại các DN này cũng sẽ gặp khó khăn)...
Besra là một DN khai khoáng đang than khó điển hình trước áp lực tăng thuế suất. Ngoài DN này, riêng tại địa bàn Quảng Nam, còn có 5 DN khai khoáng lớn khác. Mở rộng ra trên toàn quốc, nói riêng trong ngành vàng, đã và đang có không ít DN kinh doanh lĩnh vực này, bao gồm cả các DN kinh doanh, phân phối vàng được chế tác từ vàng nguyên liệu. Thuế suất khai thác tài nguyên tăng, đầu vào sản phẩm vàng cho chế tác cũng sẽ tăng và theo một chuyên gia ngành vàng, kéo theo đó sẽ là các sản phẩm vàng (bao gồm vàng miếng, nữ trang) có nguy cơ đội giá. “Giá vàng VN rất có khả năng tiếp tục một mình một chợ”.
Chỉ công cụ thuế đã đủ?
Tổ chức sáng lập và nghiên cứu độc lập Mine2capital (New York, Mỹ) thống kê, tại một số quốc gia trong cùng khu vực, thuế tài nguyên đánh trên vàng rất thấp: Indonesia chỉ có 3,25%, Malaysia thậm chí 0%, còn ở Lào – ngay cạnh VN thì 5%. Thuế thu nhập DN của ngành vàng tại các nước này cũng thấp hơn VN, với mức lần lượt 25%, 25% và 28%, trong khi ở VN là 40%. “Khó có thể nói thuế suất cho DN khai khoáng tại VN đang thấp hơn thế giới và đang “bán rẻ tài nguyên”. Song rất có thể, đổi lại, DN vẫn chấp nhận một mức thuế cao và một chi phí lobby ngoài sổ sách, để được những lợi ích như đánh giá trữ lượng mỏ thấp hơn nhiều so với trữ lượng thật và theo đó, DN sẽ chỉ nộp thuế trên một trữ lượng khai thác được khai báo thấp. Mà tỉ lệ trữ lượng thật lại cao rất nhiều lần so với trữ lượng khai thác khiến tiền tài nguyên của quốc gia “chảy tuột”. Như vậy, để hạn chế được mối nguy “bán rẻ tài nguyên” và nguồn lợi thực sự được đưa vào ngân sách, sử dụng mình công cụ áp thuế là không đủ và khó thỏa đáng!”, vị chuyên gia phân tích.
Tại Diễn đàn DN VN giữa kỳ 2013 (VBF), báo cáo của nhóm công tác Khoáng sản cho biết trong cuộc khảo sát hàng năm 2012/2013 đối với các Cty thăm dò và khai thác khoáng sản hoạt động tại 96 vùng lãnh thổ trên thế giới (hầu hết là các quốc gia và có bao gồm cả một số bang và thành phố của các nước phát triển mạnh trong lĩnh vực khai khoáng như Australia, Canada, Hoa Kỳ và Argentina) Viện Fraser điều tra về nhận định của các Cty quốc tế về các yếu tố chính sách công đã và đang thúc đẩy hoặc cản trở đầu tư tại từng khu vực công bố, trong số 96 vùng lãnh thổ được điều tra, VN xếp thứ 95. Hơn nữa, theo đánh giá của khảo sát này, trong ba năm vừa qua, VN đã tụt hạng lần lượt từ vị trí 55 xuống 84 và 95. “Rõ ràng chưa có sự nhận thức tích cực về tính hấp dẫn đầu tư trong lĩnh vực khai khoáng sản ở VN, đặc biệt là các vấn đề về điều hành, pháp lý và thuế”, báo cáo kết luận. Cũng theo nhóm công tác thì việc Bộ Tài chính đang xem xét lại và tăng Thuế Tài nguyên đánh vào các sản phẩm từ khoáng sản và việc Bộ Tài nguyên và Môi trường hiện đang dự thảo Thông tư về một loại phí mới là Phí cấp quyền khai thác khoáng sản theo quy định của Luật Khoáng sản 2010, về bản chất tiền cấp quyền là thu trên tài nguyên, không khác gì Thuế tài nguyên đã có. Đây có thể hiểu phải chăng là một đề xuất tiếp tục mang tính trùng lặp trong các chính sách thuế, phí – một cản trở khiến VN tụt hạng như trong bảng công bố của Fraser?
Hiện tại, đề xuất của Bộ Tài chính vẫn đang trong giai đoạn lấy ý kiến. Câu hỏi làm thế nào để bảo đảm hài hoà sự phát triển kinh tế và bảo vệ tài nguyên môi trường - một trong những mục tiêu phát triển kinh tế 2013 – đã không còn mới. Với tất cả những luận cứ ngổn ngang mỗi bên một thuyết như vậy, rõ ràng nếu những lá phiếu biểu quyết cho các quyết định chính sách chưa dựa trên một căn cứ rõ ràng, thuyết phục, trên một kết quả khảo sát tổng hợp từ các chuyên gia, các cơ quan có thẩm quyền và cả khảo sát độc lập về tính hiệu quả của việc điều chỉnh tăng thuế khai thác tài nguyên với sự cân bằng giữa lợi ích hôm nay, lợi ích của DN, của nền kinh tế hôm nay, đặt trong tầm nhìn dài hạn về lợi ích (hay hậu quả để lại) cho thế hệ mai sau, thì việc giải quyết câu hỏi có thể sẽ chỉ dừng ở mức xử lý bề mặt nổi của một tảng băng.
Theo Bloomberg, các Cty Trung Quốc Hong Kong đang tăng cường nắm giữ các mỏ vàng thông qua mua lại cổ phần các Cty trên thế giới. Giá trị của các thương vụ mua lại đã lên tới 2,24 tỉ USD từ đầu năm tới nay, vượt kỷ lục năm ngoái là 1,96 tỉ USD. Đây là một động thái tận dụng thời cơ giá vàng lao dốc và giá trị các mỏ vàng giảm mạnh, tài sản rẻ hơn cơ hội ép giá cũng cao hơn khi các Cty phương Tây rơi vào tình trạng nợ. Chen He - trưởng bộ phận phát triển nguồn nước ngoài của Zhaojin Mining Industry, một trong hai Cty lớn của Trung Quốc đang tăng cường tìm kiếm mua lại các Cty khai khoáng vàng sau khi giá cổ phiếu giảm tới 53% kể từ khi giá cao đỉnh điểm năm 2011 cho biết năm 2014, nhiệm vụ chính của ông là tìm kiếm các mục tiêu tiềm năng do giá tới đây dự báo có thể thấp hơn. VN không nằm trong danh sách các quốc gia có mỏ vàng giá trị lớn nên điều đó cũng đồng nghĩa với khả năng thu hút các tập đoàn quốc tế đầu tư khai khoáng tại VN sẽ khó khăn, nếu VN không đưa ra được ưu đãi cạnh tranh. Cũng theo Bloomberg, tổng giá trị các thương vụ M&A của ngành khai thác sản xuất vàng thế giới đạt 10,3 tỉ USD trong năm nay, cao hơn mức năm ngoái là 8,9 tỉ USD. 12 loại thuế, phí và lệ phí mà các DN trong lĩnh vực khai khoáng tại VN đang phải gánh chịu: Phí sử dụng thông tin địa chất; Hoàn trả phí điều tra, thăm dò khoáng sản; Phí thẩm định trữ lượng khoáng sản; Lệ phí cấp phép; Phí thẩm định đánh giá tác động môi trường; Phí bảo vệ môi trường; Thuế tài nguyên; Thuế xuất khẩu; Thuế thu nhập DN; Thuế GTGT; Thuế môi trường; Ký quỹ phục hồi môi trường (Nguồn: Báo cáo của nhóm Công tác khoáng sản - VBF) |
Ông Trần Quốc Quýnh Chuyên gia cao cấp Hiệp hội Kinh doanh Vàng VN: Sẽ có những tác động về tâm lý
Chúng ta không thể lấy lý do tăng thuế nhằm quản lý tốt ở tầm vĩ mô, đồng thời hạn chế việc khai thác khoáng sản, đặc biệt là các loại khoáng sản, tài nguyên không tái tạo. Bởi nếu là tài nguyên vốn quý của quốc gia thì cần phải được khai thác sử dụng một cách hiệu quả thay vì ra những quy định mang tính “cấm cửa”. Nhất là trong giai đoạn chúng ta đang cần rất nhiều nguồn lực phục vụ cho nền kinh tế. Tôi cho rằng để chính sách đi vào cuộc sống cần lấy ý kiến tham vấn của các DN, hiệp hội và tổ chức quốc tế. Việc tăng thuế suất phải hướng đến mục tiêu cao nhất là góp phần nâng cao hiệu quả quản lý và phát huy tối đa nguồn lực. Thị trường vàng trong nước chủ yếu phụ thuộc vào thị trường vàng thế giới, bởi sản lượng vàng của chúng ta rất nhỏ. Tuy nhiên có thể nó sẽ gây những tác động về tâm lý. Ông Nguyễn Đức Long - Giám đốc Cty CP phần khoáng sản Hoàng Long : Mặt hàng Titan sẽ đánh mất lợi thế cạnh tranh
Nếu việc tăng thuế này chính thức có hiệu lực thì mặt hàng titan của VN sẽ đánh mất lợi thế cạnh tranh trên thị trường thế giới, đặc biệt là tại Trung Quốc – thị trường xuất khẩu chủ lực của VN. Bởi mức thuế hiện nay thuế nhập khẩu vào thị trường này là 17%, cộng thêm 15% thuế xuất khẩu từ phía VN thì giá bán sản phẩm của VN phải cao hơn các nhà máy Trung Quốc ít nhất là 32%. Nếu cộng thêm 5% nữa thì DN VN không thể cạnh tranh nổi. Nhà nước nên áp dụng và xây dựng kế hoạch về lộ trình thuế suất phù hợp để chủ đầu tư thu hồi được vốn, có điều kiện tích luỹ vốn và khuyến khích DN mạnh dạn tham gia đầu tư vào nhà máy chế biến sâu nhằm gia tăng giá trị sản phẩm, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước thông qua việc miễn thuế xuất khẩu hoặc ưu đãi thuế trong giai đoạn đầu cho các sản phẩm chế biến sâu để các DN có sức cạnh tranh và đứng vững trên thị trường khi vực và thế giới. TS Võ Trí Thành - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương: Câu chuyện của chính sách
Rõ ràng hiện nay, có một nhận thức là không phải đúng đối với tất cả mọi Cty, nhưng chúng ta vẫn tạm gọi khai thác khoáng sản là “bóc lột tài nguyên” – theo nghĩa việc khai thác khoáng sản được bao nhiêu bán được bấy nhiêu, tạo ra một chút giá trị ở góc độ tài chính. Tuy nhiên, xét góc độ bền vững, thân thiện môi trường, bảo vệ môi trường và cả hiệu quả cho ngân sách thì vẫn còn rất nhiều vấn đề. Hiện nay, đầu tư trực tiếp nước ngoài có rất nhiều loại hình. Có DN tìm giá trị, có DN tìm hiệu quả ngắn hạn…và các DN đều nhắc đến những rào cản trong hoạt động đầu tư. Nhưng dù thế nào thì khai thác khoáng sản, tài nguyên, vẫn là một ngành hấp dẫn hàng đầu. Do đó, làm thế nào để vừa thu hút được đầu tư, kêu gọi được sự đổi mới và đầu tư chất lượng, công nghệ hiện đại, theo hướng đảm bảo hiệu quả, giá trị đầu tư, đóng góp tài chính và bảo vệ môi trường là cả một nghệ thuật. Sử dụng các công cụ, bao gồm công cụ thuế, để tạo ra một thị trường có tính cạnh tranh, thu hút FDI có chất lượng, thực tế, chúng ta đã làm hơi chậm. Nhưng không thể không làm! |
Nguồn: DDDN
