Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

DNNN: Mô hình phát triển nào ? (08/11)

08/11/2013 - 17 Lượt xem

Nhưng không thể phủ nhận nhu cầu sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lí DNNN đang được đẩy tới một cao trào mới…

Thử và sai

Khai tử, ai về nhà nấy hoặc thay tên đổi họ là trường hợp đã diễn ra với nhiều tập đoàn trong thời gian vừa qua. Trong giai đoạn 2010-2012, điển hình cho mô hình thí điểm “táo bạo” nhưng kết quả bất thành phải kể đến quyết định thành lập Tập đoàn Công nghiệp Xây dựng VN (VNIC) và Tập đoàn Phát triển nhà và đô thị VN (HUD). Hai tập đoàn này thành lập trên cơ sở thực hiện thí điểm thành lập tập đoàn kinh tế theo Quyết định ngày 12/1/2010, trong đó Tập đoàn VNIC lấy TCty Sông Đà làm nòng cốt và Tập đoàn HUD lấy TCty Phát triển nhà và đô thị làm nòng cốt.

Sau hơn 2 năm, báo cáo của Bộ Xây dựng về mô hình thí điểm này cho thấy do hình thành trên cơ sở liên kết hành chính nhiều TCty hoạt động theo mô hình Cty mẹ - Cty con nên dẫn đến rất nhiều bất cập, mà trong đó cụ thể nhất là có tập đoàn đã tăng số lượng DN thành viên lên tới cả trăm, do dưới mỗi TCty lại có hàng chục Cty con lớn nhỏ. Tại Tập đoàn Sông Đà, với vốn đầu tư hiện diện ở 4 cấp DN thì tổng số thành viên của tập đoàn là 230 đơn vị, trong khi ở HUD cũng có tới 183 đơn vị. Trên thế giới có lẽ ít có tập đoàn nào lại có các thành viên mà cây phả hệ kéo dài tới vậy, ngoại trừ những tập đoàn đa quốc gia khi tính cả các Cty thành viên ở mỗi quốc gia, mỗi thị trường, hay những Cheabol khổng lồ của Hàn Quốc có tính cả những Cty liên kết có mối quan hệ tài chính và chiến lược kinh doanh.

Một xu hướng đang diễn ra và có lẽ còn tiếp tục diễn ra mạnh trong thời gian tới, trong quá trình sắp xếp, tái cơ cấu DNNN, đã có nhiều tập đoàn thay tên. Việc thay tên có thể chỉ như thay một cái vỏ bình mới và không có gì đáng lưu tâm nếu rượu trong bình vẫn cũ, nhưng cơ bản qua một vài trường hợp, việc thay tên Tập đoàn đã và đang kéo theo những định hướng phát triển mới của DN. Vì vậy được chờ đợi hơn.

Điển hình mới nhất phải kể đến là trường hợp đổi tên Vinashin, vốn được biết đến trước đây với cái tên Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy VN, nay đã đổi sang “mác” mới là TCty Công nghiệp tàu thủy, trên cơ sở “tổ chức lại” Cty mẹ và một số đơn vị thành viên của Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy VN (Vinashin), theo Quyết định số 3287 ban hành ngày 21/2013 của Bộ Giao thông vận tải. Tên viết tắt mới của Vinashin là SBIC, hoạt động theo mô hình Cty mẹ - Cty con. Cty mẹ - SBIC là Cty TNHH một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và có 8 Cty con. Theo Bộ Tài chính, sự thay đổi mô hình phát triển của đơn vị này là để tập trung vào ngành nghề chính và có tài chính lành mạnh hơn. 

Vinashin khi lột xác thành SBIC có thể nhanh chóng phát huy hiệu quả của ngành nghề chính và có tài chính lành mạnh hay không, chắc chắn phải chờ rất nhiều thời gian cũng như quá trình tiếp tục “dọn dẹp”, mới có thể đưa ra thị trường một câu trả lời.

Mô hình phát triển chung?

Vậy đâu là mô hình cho sự phát triển chung của các DNNN trong tổng thể cơ cấu nền kinh tế?

Chuyên gia Kinh tế Trần Sĩ Chương cho rằng nhìn lại lịch sử hoạt động của mô hình DNNN, ngay từ năm 1986, VN bắt đầu thực hiện đường lối Đổi mới với ba trụ cột: (i) chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang vận hành theo cơ chế thị trường; (ii) phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong đó khu vực dân doanh đóng vai trò ngày càng quan trọng; (iii) chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới một cách hiệu quả và phù hợp với điều kiện thực tiễn của VN. Ngay trong giai đoạn đổi mới lần đầu này, đã xuất hiện những nhận thức khác nhau về việc xây dựng TCty. Nên tổ chức như thế nào, theo mô hình nào để “chuẩn” nhất là một lựa chọn khó đối với mô hình kinh tế Nhà nước, khi kinh tế VN luôn có những đặc thù khác biệt với các nền kinh tế phát triển hay đang phát triển.

Nhìn ra khu vực, có người đề xuất VN nên chọn mô hình Hàn Quốc, tức nhân các Tập đoàn, TCty lên từ những tên tuổi DN tiên phong theo cách lớn mạnh của các Chabol. Lại cũng có người dẫn ra mô hình phát triển của các các TCty Nhật Bản, tương tự như Hàn Quốc và với một tiêu chí đơn giản: Các Cty có to thì mới mạnh, mới có thế cạnh tranh, mới đủ sức đối đầu. Dù vậy, việc áp dụng tiêu chí này cho các Cty ở các nền kinh tế Nhật Bản, Hàn Quốc thì phù hợp, sang ta, lại vẫn có phần khập khiễng, ông Chương nói.

Không cùng một xuất phát điểm và không cùng một lý do, các Tập đoàn, TCty VN cần một tâm thế khác, một mô hình khác. Ông Nguyễn Lê Nguyên - Thạc sĩ Tài chính Anh Quốc cho rằng nhìn về quá khứ, hiện tại và hướng đến tương lai, VN có thể chọn cho mình một hướng đi theo cách thức không bỏ giỏ một trứng – không tập trung tất cả mọi nguồn lực cho Tập đoàn, TCty lớn mà nên hướng đến xây dựng một môi trường kinh tế, một sân chơi phẳng cho tất cả các thành phần kinh tế, được “chơi” công bằng. Điều đó sẽ tạo động lực cho khối DNNVV VN, vốn đang chiếm tỷ trọng lớn trong đóng góp GDP quốc gia, có thể phát triển. “DNNVV rất cần vốn, trong khi đó nếu đã được “chơi” công bằng, Nhà nước sẽ không nhất thiết phải bơm thêm nhiều vốn, phải vận dụng đến các gói kích cầu cho từng nhóm kinh tế khi khó khăn. Nếu chúng ta có một sân chơi “phẳng”, khi nền kinh tế khó khăn, một số các DN phá sản sẽ không phải là vấn đề trở nên đáng nghiêm trọng, bởi DN này ngã xuống, sẽ là lớp gạch lót cho những DN còn lại đi tiếp, sống tốt. Đây là cách chơi bình đẳng và không có nghĩa là nghiệt ngã, ông Nguyên nói.

Vẫn biết, xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các TCty Nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế, là một trong những định hướng, công cụ để điều tiết vĩ mô nền kinh tế của kinh tế nhà nước. Với ý nghĩa đó, sự ra đời của các tập đoàn, TCty ở thuở ban đầu của nền kinh tế, có thể ví như một sự lớn mạnh của tự nhiên. Nhưng đó chỉ là sự vận hành tạm thời hoàn hảo trong một giai đoạn của quá trình phát triển tự nhiên. Các tập đoàn, TCty trong xu hướng phát triển và hội nhập kinh tế toàn cầu, hướng tới việc thoát khỏi “cái bọc” ấm êm của Nhà nước, và cần một sự định vị cho mô hình phát triển của khối DN này.

Vì vậy, nếu không có một sự định vị rõ ràng cho một mô hình phát triển chung của DNNN trong tổng thể nền kinh tế, thì thực tế dù thay đổi, dù sắp xếp, tái cấu trúc, dù định hướng quản lí và thậm chí thiết lập cả những tổ chức như Ủy ban Quản lí giám sát DNNN để quản lí DNNN kinh doanh hiệu quả như một đề xuất mới đây…, cũng rất khó có thể đưa đến những chính sách mạch lạc và đảm bảo cơ chế hỗ trợ DNNN thực sự phát triển, đồng thời cũng đảm bảo cơ chế thị trường, cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng của tất cả các thành phần trong nền kinh tế. Những ràng buộc về các DNNN phải bình đẳng với DN tư nhân mà Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương đưa ra đối với VN khi trở thành thành viên nay mai, đang khiến chúng ta phải suy nghĩ hướng tới cái nhìn dài hạn về nền kinh tế trong tương lai, ở khía cạnh này.

Một vài con số:

- Tính đến 31/12/2011, tổng vốn của 271 DN thuộc 27 tập đoàn, TCty là trên 263.000 tỉ đồng, trong đó vốn chủ sở hữu chiếm 24,7%. 69,94% là nợ phải trả của các đơn vị/ tổng nguồn vốn. (nguồn: Kiểm toán nhà nước)

- Các tập đoàn, TCty chiếm 40% tổng vốn đầu tư xã và tạo ra khoảng 10% việc làm cho toàn xã hội. 35% tổng đầu tư thuộc khu vực kinh tế ngoài nhà nước, đem lại 87% việc làm cho nền kinh tế. (nguồn:Tổng cục Thống kê)

- Năm 2010, dư nợ nước ngoài do Chính phủ bảo lãnh cho khu vực DNNN vào năm 2010 khoảng 4,6 tỉ USD, tương đương với 14,3% tổng dư nợ nước ngoài của VN. (nguồn: Bộ Tài chính)

- 11,08% là tỉ lệ nợ xấu của DNNN trên hệ thống tính đến tháng 6/2012, chưa bao gồm nợ của Vinashin và nợ được cơ cấu lại. (nguồn: Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia).

Nguồn: DDDN