
Tin tức
Kinh tế toàn cầu – cận cảnh một góc nhìn (25/01)
25/01/2014 - 18 Lượt xem
Ngấm “đòn” với tiền tệ nới lỏng, tài khóa thắt chặt
Sau khi thế giới lâm vào cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cuối năm 2008, nhiều dự báo cho rằng kinh tế thế giới sẽ bắt đáy năm 2010, chậm lắm là năm 2011, sau đó sẽ phục hồi mạnh trở lại. Tuy nhiên 5 năm trôi qua, tăng trưởng của kinh tế toàn cầu vẫn chậm chạp với sự phục hồi không chắc chắn.
Chỉ từ nửa cuối của năm 2013, với nhiều điều chỉnh trong chính sách tài khóa (CSTK) và chính sách tiền tệ (CSTT) của các nền kinh tế lớn (chủ yếu bắt đầu thực hiện từ đầu năm 2013) thì diễn biến kinh tế ở các nền kinh tế mang tính dẫn dắt này mới có những cải thiện đi lên thực sự vững chắc.
Trong gần 5 năm qua, dù cách thức và mức độ áp dụng các CSTK và CSTT ở các nền kinh tế phát triển đầu tàu không giống nhau, nhưng một điểm chung dễ nhận ra là họ đều áp dụng các CSTT nới lỏng, trong khi CSTK thắt chặt nhằm đối phó với khủng hoảng, phục hồi kinh tế.
Điển hình là đầu tàu kinh tế Mỹ. Trong khi liên tục gặp phải các vấn đề về tài khóa, thậm chí Chính phủ nước ngày đã vài lần đứng trước nguy cơ “đóng cửa” và đã rơi vào tình trạng đóng cửa một phần vào ngày 1/10/2013 (và kéo dài 16 ngày) vì không được Quốc hội chấp thuận nâng trần nợ công.
Nhưng với tư cách là một NHTW độc lập, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã “thoải mái” hành động hỗ trợ nền kinh tế. Cụ thể, kể từ năm 2008, Fed đã thực thi một CSTT siêu nới lỏng để vực dậy nền kinh tế với việc đưa các lãi suất cơ bản xuống mức gần 0% và liên tiếp đưa ra các gói nới lỏng định lượng (QE).
Dù với những trọng tâm ưu tiên khác nhau, nhưng mô hình CSTT nới lỏng và CSTK thắt chặt như của Mỹ cũng được nhiều nền kinh tế tư bản lớn khác trên toàn cầu áp dụng. Điển hình như khu vực Eurozone đã áp dụng CSTK đặc biệt thắt chặt (còn gọi là chính sách “thắt lưng buộc bụng”) nhằm đối phó với khủng hoảng nợ công, trong khi duy trì CSTT nới lỏng để hỗ trợ kinh tế. Trong bối cảnh đó, động lực tăng trưởng của kinh tế toàn cầu trong giai đoạn này được giới phân tích nhìn nhận không còn nằm ở những cường quốc kinh tế lớn mà chủ yếu dựa vào các nền kinh tế mới nổi.
Tuy nhiên bên cạnh các tác động tích cực mà rõ nhất là không làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu nói chung, các vấn đề của mỗi nước và khu vực nói riêng xấu thêm thì các chính sách như vậy cũng ngày càng cho thấy nhiều hệ lụy. Sự hồi phục thiếu bền vững; tăng trưởng kinh tế chậm chạp, thậm chí nhiều nước, khu vực rơi vào suy thoái; niềm tin vào triển vọng kinh tế tiêu cực dẫn đến các hoạt động đầu tư vào nền kinh tế thực giảm sút, tiêu dùng sụt giảm;
DN luôn trong trạng thái “wait and see”, tiết giảm chi phí và không mở rộng sản xuất kinh doanh dẫn đến thất nghiệp tăng cao; thu nhập đi xuống, khoảng cách giàu – nghèo thêm nới rộng; các cuộc biểu tình, bất ổn xã hội, chính trị ở nhiều quốc gia tăng mạnh…
Chỉ đến những tháng đầu năm 2013 trở lại đây, trên các phương tiện truyền thông người ta mới không còn nghe nói tới nhiều các yêu cầu “thắt lưng buộc bụng” ở khu vực Eurozone. Thay vào đó là những vấn đề tài khóa được từng bước giải quyết. Các nền kinh tế tư bản sau một thời gian dài duy trì xu hướng lãi suất giảm (CSTT nới lỏng) quay sang điều hành theo hướng lãi suất tăng (CSTT bớt nới lỏng hơn), xu hướng tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định hơn đã quay trở lại.
Thậm chí những nền kinh tế liên tục trong suy thoái như Eurozone thì từ quý II/2013 cũng bắt đầu tăng trưởng dương trở lại, chấm dứt chuỗi 6 quý liên tiếp chìm trong suy thoái của khu vực này.
Thay đổi chính sách, kinh tế sẽ tích cực hơn
Đáng chú ý, nhiều phân tích cho rằng, sau 5 năm các gói QE của Mỹ được triển khai, các nhà đầu tư dường như đã trở thành những “con nghiện” đối với các gói QE và thực trạng lãi suất gần như bằng 0% mà Fed và nhiều NHTW khác áp dụng. Thế nên việc rút bỏ nới lỏng có thể gây ra những biến động trên thị trường tài chính toàn cầu. Nhưng cũng có một thực tế khác là, việc tiếp tục bơm thanh khoản thông qua gói QE hay các biện pháp nới lỏng tiền tệ khác sẽ làm trầm trọng thêm nguy cơ về các cuộc “chiến tranh tiền tệ” đang âm thầm diễn ra.
Các gói QE giúp Mỹ giữ đồng USD yếu, qua đó hỗ trợ xuất khẩu của họ. Nhưng ngược lại, các đối thủ cạnh tranh của Mỹ cũng không khoanh tay đứng nhìn mà phải có các hành động tương tự để bảo vệ khả năng cạnh tranh của mình. Bởi thế, cụm từ “cuộc đua kéo nhau xuống đáy” đã được hơn một lần sử dụng trong thời gian qua để nói về tác động tiêu cực trong chính sách nới lỏng tiền tệ mà nhiều nước đang tiến hành.
Nếu vào giai đoạn đại khủng hoảng những năm 30 của thế kỷ trước, người ta mạnh dạn tuyên bố phá giá để cạnh tranh thì nay những diễn biến tương tự cũng lặp lại. Chỉ có điều, thay vì những tuyên bố phá giá chính thức thì nay, các nền kinh tế thông qua nới lỏng tiền tệ và thanh khoản để cạnh tranh với nhau.
Trong bối cảnh đó, việc chấm dứt các chính sách nới lỏng tiền tệ, hỗ trợ thanh khoản mà không cần tăng lãi suất nhanh và không gây suy giảm cho nền kinh tế thực sự là một công việc rất khó khăn đối với Fed và nhiều NHTW lớn khác. Nhưng dù thế nào thì họ cũng phải hành động bởi nếu cứ duy trì các CSTT siêu nới lỏng mãi thì hệ lụy có thể sẽ lớn hơn cả những tác động tích cực.
Trong khi đó, sau nhiều năm dài duy trì CSTK chặt chẽ, các chính phủ từ Washington (Mỹ) tới Madrid (Tây Ban Nha) hay Athen (Hy Lạp) ngày càng thấy những tác động tiêu cực của các chính sách này đang lớn dần, nhất là khi đây chính là một trong những lực cản lớn khiến các nền kinh tế không thể tăng trưởng.
Bởi nếu xu hướng thắt chặt CSTK tiếp diễn thì các DN cũng sẽ tiếp tục không sẵn sàng đầu tư, các hộ gia đình không mở rộng hầu bao chi tiêu trong bối cảnh chính phủ cắt giảm đầu tư, tạo việc làm cho khu vực công. “Tháo gỡ gánh nặng tài khóa là một yếu tố quan trọng để thúc đẩy kinh tế toàn cầu tăng trưởng trở lại” - nhà kinh tế Jose Ursua thuộc Goldman Sachs nhìn nhận.
Đơn cử như với nền kinh tế Mỹ, với CSTK “thoáng” hơn trong khi CSTT bớt nới lỏng hơn (bắt đầu cắt giảm QE từ tháng 1/2014), Goldman Sachs dự báo GDP nước này sẽ tăng trưởng ở mức 2,8% trong năm 2014, tăng mạnh so với mức dự báo chỉ 1,7% trong năm 2013. Với châu Âu, dù có thể phải đến năm 2015 thì những hậu quả của thắt chặt tài khóa trong suốt thời gian qua mới được khắc phục cơ bản nhưng theo chuyên gia kinh tế Laurence Boone thuộc Merrill Lynch, khu vực này đã thoát khỏi suy thoái một cách vững chắc và có thể sẽ tăng trưởng 0,8% trong năm 2014.
Sự thay đổi chính sách ở các nền kinh tế lớn như Mỹ, EU (đặc biệt là trong CSTT) dự báo sẽ có những tác động không mấy tích cực đến các nền kinh tế mới nổi bởi dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài bị rút ra gây mất ổn định hệ thống tài chính. Tuy nhiên, điều đó không hẳn là tiêu cực cho tăng trưởng toàn cầu nói chung. Khi chuyển sang CSTT bớt nới lỏng hơn, đồng nghĩa với các nền kinh tế này đã có những phục hồi vững chắc và không còn cần sự trợ giúp của các biện pháp “siêu nới lỏng” như trước nữa.
Và nói gì thì nói, việc các cường quốc kinh tế có được sự phục hồi vững chắc sẽ tốt cho nền kinh tế toàn cầu bởi họ vẫn là những đầu tàu có khả năng kéo cỗ máy kinh tế thế giới tiến lên (hoặc chậm lại). Có thể các dòng tiền không còn ồ ạt đổ vào các thị trường mới nổi như trước đây, song sự phục hồi mạnh ở các thị trường phát triển lớn – cũng là những thị trường xuất khẩu hàng hóa hàng đầu cho các quốc gia khác – sẽ mang lại hiệu ứng tích cực, đặc biệt cho các nền kinh tế đang dựa nhiều vào xuất khẩu.
Là một trong những nền kinh tế có độ mở lớn nhất thế giới (với độ mở đã lên tới 180% GDP), các chuyên gia cảnh báo tác động của kinh tế toàn cầu đối với Việt Nam sẽ ngày càng lớn. Các dự báo cho rằng, kinh tế toàn cầu trong năm 2014 sẽ tăng trưởng tích cực hơn và kỳ vọng điều này mang lại những tác động tốt cho kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, tác động không phải lúc nào cũng cùng chiều mà còn phụ thuộc rất nhiều vào phản ứng và các chính sách thay đổi cho phù hợp với môi trường quốc tế.
Theo đó, cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, việc các nền kinh tế lớn như Mỹ, EU có những thay đổi lớn trong CSTK và CSTT cũng đặt ra những vấn đề thực sự trong điều hành chính sách của chúng ta. “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” vẫn là phương châm mà các nhà hoạch định chính sách không nên bỏ qua trong thực tế điều hành chính sách năm tới.
Nguồn: Thời báo ngân hàng
