Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Lãng phí khu công nghiệp, cụm công nghiệp (17/02)

17/02/2014 - 25 Lượt xem

Đất bỏ hoang, dân thiệt

Trong thời điểm “tấc đất, tấc vàng” như hiện nay, tại một số địa phương có không ít KCN, CCN sau khi thu hồi đất của người dân thực hiện dự án nhưng chậm triển khai hoặc đã hoàn thành nhưng không có nhà đầu tư (NĐT) thuê, đang rơi vào cảnh “vườn không, nhà trống”.

Khu công nghiệp... thả bò, trồng sắn

Một ngày cuối năm 2013, sau khi vượt qua quãng đường hơn 60km, chúng tôi tìm về KCN Rạch Bắp thuộc xã An Điền, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương có diện tích quy hoạch 278ha. Hiện tại, KCN này đã đền bù giải tỏa xong và hệ thống cơ sở hạ tầng điện, đường hoàn chỉnh, khang trang nhưng đến nay chỉ có 6 nhà xưởng hoạt động nằm rải rác, đa số diện tích đất còn trống được dùng trồng sắn với những lùm cây cao hơn đầu người.

Còn KCN Đồng An 2 thuộc phường Hòa Phú, TP Thủ Dầu Một, rộng 205ha nhưng chỉ có 30 doanh  nghiệp (DN) hoạt động với diện tích cho thuê 55ha. Còn nhiều đất bỏ trống nên hàng ngày người dân đem bò vào thả nhếch nhác và dơ bẩn. Tại đây, Ban Quản lý KCN Đồng An 2 phải đặt biển cấm với nội dung “Cấm chăn thả gia súc trong đất KCN Đồng An 2, ai vi phạm sẽ bị giữ trâu, bò và xử phạt theo quy định”. Một số KCN như Kim Huy, Việt R.E.M.A.X… cũng rơi vào tình cảnh tương tự.

KCN Nhơn Trạch 6 thuộc xã Long Thọ, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Theo quy hoạch, KCN Nhơn  Trạch 6 có tổng diện tích 315ha, nằm ở vị trí hết sức thuận lợi trong việc kết nối hạ tầng với các vùng phụ cận, đặc biệt là các cảng biển sẽ giúp NĐT tiết kiệm được chi phí cũng như thời gian vận chuyển nguyên liệu, hàng hóa khi đầu tư vào KCN nhưng đang được người dân thuê lại để trồng sắn. Nằm cạnh KCN Nhơn Trạch 6 là các KCN Nhơn Trạch 2 - Nhơn Phú, Nhơn Trạch 3 mở rộng vẫn còn nhiều diện tích đất bỏ trống.

Tại TPHCM, dù được đánh giá là một trong những địa phương có thế mạnh về thu hút đầu tư vào các KCX-KCN. Thế nhưng, hiện nay một số KCN sau khi xây dựng vẫn rất ít NĐT thuê hoạt động. Đơn cử, tại các KCN Đông Nam, Tân Phú Trung (huyện Củ Chi), dù hệ thống cơ sở hạ tầng đã được xây dựng hoàn chỉnh nhưng số lượng NĐT thuê đất xây dựng chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Tại đây, nhiều diện tích đất còn bỏ hoang, cỏ mọc um tùm nên hàng ngày người dân chạy xe vào cắt cỏ về cho bò ăn. Riêng một số khu vực triển khai xây dựng còn bỏ trống nên người dân tranh thủ dắt bò ra thả.

Thất nghiệp nhiều ruộng bỏ hoang

Để thực hiện việc xây dựng KCN, CCN các tỉnh, thành phải thu hồi một lượng lớn đất đai của người dân, trong đó đa phần là đất sản xuất canh tác. Điều đáng nói, nhiều diện tích đất sau khi bị thu hồi lại chậm triển khai hoặc xây dựng xong nhưng không có NĐT thuê, dẫn đến tình trạng bỏ hoang lãng phí.

Một người bán tạp hóa gần KCN Nhơn Trạch 6 bức xúc: “Đất thu hồi của người dân đã gần 10 năm nay nhưng không thấy triển khai. Mỗi khi họp dân, chúng tôi phản ánh thì được bảo là sắp triển khai nhưng rồi chẳng thấy gì”. Một người dân ở cạnh KCN Rạch Bắp thuộc xã An Điền, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương, than vãn: “Dù không có đất bị thu hồi làm KCN nhưng lại bị vướng giải tỏa làm đường kết nối hàng rào với KCN. Thế nhưng, nhiều năm nay dự án không triển khai, cây cao su trồng lên bị chặt, chúng tôi chịu thiệt thòi rất lớn”.

Còn ông Võ Hồng Thái, ngụ ấp 2, xã Hòa Phú, huyện Củ Chi, TPHCM, nhà cạnh KCN Đông Nam, cho biết: “Năm 2005, gia đình tôi bị thu hồi 2.500m² để thực hiện dự án. Tuy nhiên, do giá đền bù giải tỏa thấp, đất ruộng 94.000 đồng/m²; đất gần đường lộ, đất vườn 130.000 đồng/m² nên em tôi có nhà bị giải tỏa, khi nhận tiền đền bù đi mua chỗ khác không đủ”.

Một cán bộ ở xã Hòa Phú, huyện Củ Chi, có đất bị giải tỏa thực hiện dự án CCN Cơ khí ô tô TPHCM, bức xúc: Khi thu hồi đất thực hiện dự án, chính quyền địa phương hứa sẽ ưu tiên cho người dân sở tại làm việc khi dự án hoàn thành, nhưng hơn 5 năm qua, đất canh tác của người dân đã bị thu hồi còn dự án chẳng thấy đâu, một số con em phải đi làm công nhân, làm thuê ở xứ khác.

 “Hồi xưa với 1ha đất nếu gặp thời tiết thuận lợi làm 2 vụ lúa và 1 vụ màu, cả hai vợ chồng và 8 đứa con có lúa ăn quanh năm không hết, nông dân nhờ ruộng mà sống. Nhưng kể từ ngày nhà nước thu hồi đất thực hiện quy hoạch dự án, đời sống người dân gặp rất nhiều khó khăn, lúa làm ra không đủ ăn do đất bị thu hẹp thế mà đất thu hồi đã nhiều năm nay lại bỏ hoang, uổng quá!” – cán bộ này tiếc rẻ.

Ngoài việc người dân không có đất canh tác, tình trạng KCN, CCN bỏ hoang còn là nỗi lo của nhiều người dân xung quanh vì đất đai rộng, cây cỏ um tùm, lực lượng bảo vệ mỏng nên vô hình trung trở thành nơi tụ tập của nhóm thanh niên thất nghiệp, hư hỏng. Một cán bộ mặt trận ấp ở xã Hòa Phú, huyện Củ Chi, phản ánh: “Do đất bỏ hoang, cỏ cây mọc um tùm nên con nghiện khắp nơi tụ tập về hút chích ma túy công khai, vứt kim tiêm khắp nơi, gây mất trật tự an toàn cho người dân”.

Theo một chuyên gia kinh tế, 1ha đất sạch giao cho NĐT với chi phí bình quân từ 3,5 đến 4 tỷ đồng. Với hàng chục ngàn hécta đất KCN, CCN đang bị bỏ hoang, số tiền lãng phí lên đến hàng chục ngàn tỷ đồng. Bên cạnh đó, đời sống người dân thuộc KCN, CCN “treo” còn gặp nhiều khó khăn khác.

Vì đâu nên nỗi?

Theo quy định tại Nghị định 29 của Chính phủ quy định về KCN, KCX và KKT, các KCN mở rộng thì tổng diện tích đất công nghiệp của KCN này đã cho các dự án đăng ký đầu tư, cấp giấy chứng nhận đầu tư thuê đất, thuê lại đất ít nhất là 60%.

Có một vấn đề được dư luận đặt ra hiện nay là tại sao các KCN, CCN sau khi hình thành lại bị bỏ hoang. Nguyên nhân của tình trạng này do đâu?

Hàng chục ngàn hécta đất bỏ hoang 

Theo GS-TS Võ Thanh Thu, Trường Đại học Kinh tế TPHCM, người thực hiện đề tài nghiên cứu cấp nhà nước về phát triển các KCN Việt Nam, sau 23 năm, cả nước đã hình thành 289 KCN, KCX, khu công nghệ cao; trong đó có 184 KCN đã đi vào hoạt động (63,67%). Gần 1.000 CCN, KCN nhỏ do địa phương quản lý. Tuy nhiên, các KCN Việt Nam hiện vẫn còn nhiều tồn tại. Đó là phát triển các KCN ồ ạt, hiệu quả thấp: Hầu như tỉnh nào cũng phát triển KCN. Khu vực đồng bằng sông Cửu Long được coi là vựa lúa lớn của cả nước có 74 KCN và 214 CCN đã được phê duyệt với tổng diện tích 42.559ha. Qua kiểm tra, đến nay, diện tích đất tại KCN, CCN hoàn thiện hạ tầng được doanh nghiệp (DN) thuê chỉ 14.632ha, còn lại 27.927ha (chiếm 65,6% tổng diện tích phê duyệt) bị bỏ hoang.

Bên cạnh đó, số lượng các KCN tăng nhanh nhưng hiệu quả hoạt động thấp, tỷ lệ lấp đầy bình quân cả nước mới đạt 46%. Hàng vạn hécta đất vẫn bỏ hoang. Tỷ lệ thực hiện vốn đầu tư của các dự án hạ tầng KCN đạt thấp (các dự án KCN có vốn đầu tư nước ngoài đạt 35,7%; dự án đầu tư trong nước đạt 40,3%). Hiện tượng quy hoạch “treo” các KCN còn khá phổ biến. Chỉ riêng tại ĐBSCL có đến 100.000 hộ dân bị ảnh hưởng bởi việc thu hồi đất làm KCN, thế nhưng vùng này tỷ lệ diện tích KCN cho thuê rất thấp, bà con không có đất canh tác, không có việc làm tại chỗ vì nhiều KCN chưa triển khai, cuộc sống cơ cực. “Hiện nay, mạnh tỉnh nào tỉnh ấy phát triển KCN do chúng ta thiếu một chiến lược tổng thể phát triển KCN. Ngay cả việc hình thành Ban Chỉ đạo các vùng kinh tế trọng điểm cũng không phát huy vai trò điều tiết kinh tế trong vùng; trong đó có phát triển KCN”, GS-TS Võ Thanh Thu nhấn mạnh.  

Trong khi đó, qua thông tin từ các cơ quan quản lý KCN cho thấy, hiện nay tỷ lệ lấp đầy của các KCN trên địa bàn một số tỉnh, thành vẫn còn khá thấp. Ban Quản lý các KCN Đồng Nai cho biết, theo quy hoạch và phát triển KCN đến năm 2015, định hướng năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thì Đồng Nai có 36 KCN, với tổng diện tích 12.055ha. Hiện nay, đã thành lập 31 KCN với tổng diện tích 9.832ha; trong đó, diện tích cho thuê 6.485ha và diện tích đã cho thuê 4.121ha, đạt 63,5%. Trong 31 KCN có 28 KCN đã hoạt động với tổng diện tích 8.818ha, diện tích dùng cho thuê 5.835ha, diện tích đã cho thuê 4.098ha đạt hơn 70%; 3 KCN đang trong giai đoạn thu hồi đất.

Còn Ban Quản lý các KCN tỉnh Bình Dương thông tin: Theo quy hoạch phát triển KCN được Chính phủ phê duyệt, tỉnh sẽ có 39 KCN với diện tích 20.000ha. Hiện nay, có 29 KCN đã thành lập đi vào hoạt động với diện tích 9.400ha. Trong tổng số 25 KCN mà ban đang quản lý (4 KCN do Ban Quản lý KCN Việt Nam-Singapore quản lý - PV), tỷ lệ lấp đầy đạt hơn 50%. Ban Quản lý các KCX-KCN TPHCM cho biết, theo quy hoạch TP có 24 KCN-KCX với tổng diện tích 6.152ha. Hiện nay, có 15 khu đã thành lập với tổng diện tích quy hoạch 3.400ha; trong đó diện tích dành cho thuê 2.174ha. Tính đến cuối năm 2013, tổng diện tích đất cho thuê lũy kế đạt 1.373/2.174ha đất công nghiệp được phép cho thuê của 15 KCN-KCX, đạt tỷ lệ lấp đầy 63,09%. Trong đó, 12 KCN, KCX đã đi vào hoạt động đạt tỷ lệ lấp đầy 91,52%; 3 KCN An Hạ, Đông Nam, Tân Phú Trung và phần mở rộng KCN Hiệp Phước đang trong quá trình triển khai xây dựng hạ tầng, diện tích đã cho thuê đạt 15%.

Phát triển mang tính ngẫu hứng

Theo GS-TS Võ Thanh Thu, sở dĩ tình trạng các KCN, CCN sau khi lấy đất của người dân không triển khai hoặc triển khai nhưng không có nhà đầu tư (NĐT) thuê là do cơ sở hạ tầng trong và nối kết giữa KCN và ngoài KCN còn yếu, đường sá chưa mở, giao thông khó khăn, thiếu điện… khiến nhiều KCN bỏ hoang. Ngoài ra, ở cấp vĩ mô, trung ương lẫn địa phương chưa có chiến lược phát triển các KCN, dẫn tới sự phát triển mang tính tùy tiện, ngẫu hứng. Chất lượng quy hoạch phát triển KCN thấp, chưa mang tính liên tỉnh, liên vùng; chưa gắn với đảm bảo chỗ ở, nơi lưu trú sinh hoạt cho công nhân.

Thực chất các công ty phát triển KCN là các công ty kinh doanh bất động sản, nhưng quy chế về vấn đề này chưa hoàn thiện nên nhiều nhà đầu cơ đất làm dự án phát triển KCN, nhưng sau khi được phê duyệt rồi thì chuyển nhượng kiếm lời hoặc thay đổi công năng “xẻ đất” bán nền gây lãng phí, bức xúc cho nhân dân vùng giải tỏa dành đất phục vụ cho phát triển KCN. Chiến lược xúc tiến đầu tư chưa bài bản, thiếu tầm nhìn xa. 

Ở góc độ cơ quan quản lý nhà nước về KCN, khi đề cập đến việc vì sao tỷ lệ lấp đầy thấp sau khi các KCN đã hoàn thành đưa vào sử dụng, Ban Quản lý các KCN tỉnh Bình Dương cho hay: Đa số các KCN có tỷ lệ lấp đầy thấp chủ yếu là mới thành lập. Ngoài ra, trong quá trình các KCN này thành lập gặp tình hình kinh tế khó khăn nên thu hút đầu tư bị ảnh hưởng. Bên cạnh đó, trước năm 2009, các KCN được coi là địa bàn khó khăn và được hưởng thuế suất thấp hơn mức trung bình của doanh nghiệp bên ngoài. Nhưng sau năm 2009, ưu đãi này không còn, kể cả khu mở rộng nên NĐT cân nhắc khi đầu tư vào các KCN.

Bên cạnh đó, theo chủ trương của tỉnh là chuyển hướng thu hút các ngành nghề có hàm lượng chất xám cao, tạo giá trị gia tăng cao hơn, tạo sự phát triển bền vững nên phải có sự lựa chọn NĐT chứ không thể chạy theo số lượng. Đồng quan điểm này, Ban Quản lý các KCX-KCN TPHCM cho biết, sở dĩ tỷ lệ lấp đầy ở các KCN thấp là do các KCN này mới thành lập nên đang trong giai đoạn kêu gọi đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng. Ngoài ra, do từ năm 2008 đến nay, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới làm chậm việc thu hút đầu tư. Riêng đối với một số KCN ở nội thành khi lấp đầy họ muốn mở rộng nhưng do nhà nước bỏ chế độ ưu đãi đầu tư nên NĐT không mặn mà khi tham gia đầu tư vào các KCN mở rộng.

 

Quy hoạch tập trung, liên kết vùng

Trước những bất cập trong việc phát triển KCN, CCN, giải pháp nào để khắc phục tình trạng này đang là vấn đề đặt ra đối với cơ quan quản lý nhà nước. Theo các chuyên gia và nhà quản lý, để hạn chế những vấn đề bất cập trong việc phát triển KCN, CCN, Nhà nước cần đặc biệt chú ý đến vấn đề quy hoạch KCN, CCN.

Hạn chế đầu tư tràn lan

Để khắc phục những hạn chế trong quá trình phát triển các khu kinh tế (KKT), KCN, CCN, đầu năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị 07 về việc chấn chỉnh công tác quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động của các KKT, KCN, CCN. Theo đó, các bộ, ngành, địa phương tiến hành đánh giá việc thực hiện quy hoạch, thành lập, hoạt động của các KCN, CCN và đề xuất biện pháp xử lý đối với các KCN, CCN hoạt động kém hiệu quả, gây lãng phí đất đai, ô nhiễm môi trường. Trước mắt, trong quá trình thực hiện rà soát điều chỉnh quy hoạch, yêu cầu tạm dừng việc bổ sung quy hoạch, thành lập mới các KCN, CCN trên cả nước cho đến khi có chỉ đạo mới của Thủ tướng Chính phủ. Nghiên cứu, đánh giá tác động của việc thay đổi chính sách ưu đãi thuế, tài chính đối với hoạt động của các doanh nghiệp (DN) trong KCN, CCN, tổng hợp các kiến nghị của địa phương và DN về ưu đãi thuế, tài chính đối với KCN, CCN; trên cơ sở đó đề xuất điều chỉnh chính sách ưu đãi thuế, tài chính áp dụng đối với DN theo hướng đảm bảo ưu đãi hợp lý, tạo sự hấp dẫn thu hút các dự án đầu tư phát triển hạ tầng, dự án sản xuất trong KCN, CCN, hạn chế tối đa việc bố trí các dự án sản xuất công nghiệp nằm ngoài các KCN, CCN.

Đặc biệt, UBND các tỉnh, thành tuân thủ nghiêm túc điều kiện, trình tự, thủ tục về quy hoạch, thành lập mới, mở rộng KCN, CCN, đảm bảo phát triển KCN, CCN phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương, đảm bảo hiệu quả sử dụng đất, không phát triển KCN, CCN trên đất trồng lúa có năng suất ổn định. Kiên quyết thu hồi giấy chứng nhận đầu tư, thu hồi diện tích đã giao nhưng chủ đầu tư không có khả năng hoặc cố tình kéo dài không thực hiện dự án đầu tư xây dựng KCN, CCN.

Trong khi đó, theo các chuyên gia, cơ quan quản lý, để các KCN, CCN phát triển một cách bền vững góp phần thúc đẩy tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp, giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động, góp phần củng cố an ninh quốc phòng, Nhà nước và các địa phương cần thực hiện một cách đồng bộ các giải pháp.

Theo Ban Quản lý các KCX-KCN TPHCM, để các KCN thu hút nhà đầu tư (NĐT), Nhà nước cần quan tâm kết nối hạ tầng hàng rào, hoàn thiện hạ tầng giao thông. Tập trung đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Còn Ban Quản lý các KCN tỉnh Bình Dương cho rằng, để các KCN sau khi hình thành đi vào hoạt động thu hút được NĐT vào đầu tư, Nhà nước cần có chế độ ưu đãi dành cho DN; cũng như tạo điều kiện tối đa cho NĐT. Đối với chủ đầu tư các dự án KCN, cần đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại.

Giải pháp quản lý đồng bộ

Theo GS-TS Võ Thanh Thu, để các KCN phát triển một cách bền vững, Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng đề án phát triển các KCN và KCX Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020 trình Chính phủ phê duyệt. Chiến lược này phải nêu rõ “sứ mạng”, nhiệm vụ của các KCN trong điều kiện hội nhập mới. Xây dựng chiến lược phát triển các KCN theo vùng kinh tế, mỗi vùng phải thể hiện thế mạnh của mình trong phát triển KCN, không nên các vùng kinh tế có lợi thế khác nhau mà lại có một mô hình phát triển KCN giống nhau.

Thực tế cho thấy cần xây dựng quy trình xây dựng, vận hành KCN trên nguyên tắc: Với các dự án KCN ở vùng nông nghiệp như vùng đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng Sông Hồng… muốn được cấp giấy phép đầu tư KCN phải nằm trong quy hoạch; chủ đầu tư KCN phải trình bày luận chứng kinh tế kỹ thuật, có kèm theo bản giải trình về tác động của KCN đến môi trường và phương án xử lý; phương án đền bù giải tỏa đất, tái lập cuộc sống cho người dân ở vùng bị lấp đầy làm KCN… Hoàn thiện quy hoạch tổng thể và các quy hoạch chi tiết về phát triển KCN, các quy hoạch phải tính đến các yếu tố: đất cho hoạt động đầu tư, đất cho cây xanh, đất phát triển nhà ở và công trình phúc lợi phục vụ cho người lao động. “Để các KCN, KCX tác động đến sự phát triển bền vững nền kinh tế cần thực hiện các giải pháp đồng bộ từ trung ương đến các địa phương có sự tham gia của các cấp quản lý vĩ mô và vi mô”, GS-TS Võ Thanh Thu đề nghị.

Một số chuyên gia cho rằng, để hoạt động các KCN đạt được hiệu quả cao sau khi hình thành, trong quá trình quy hoạch các KCN, Chính phủ cần phải có quy hoạch hợp lý, tránh làm tràn lan mà phải có tính liên kết vùng. Phải coi nhà đầu tư cần cái gì? Ngoài ra, các KCN phải được quy hoạch một cách tập trung cũng như bố trí ở những vị trí phù hợp. Khi đầu tư KCN phải xây dựng hệ thống đường sá phát triển đồng bộ. Cần có cơ chế phân quyền tại chỗ một cửa cho các ban quản lý KCN địa phương để giải quyết vấn đề thủ tục cho NĐT được nhanh chóng.

Nguồn: sggp.org.vn