
Vẫn phân biệt đối xử về quyền kinh doanh (13/03)
13/03/2014 - 22 Lượt xem
Nỗ lực xoá bỏ, nhưng…
Tại hội thảo lấy ý kiến hoàn thiện dự thảo Luật Doanh nghiệp và Luật đầu tư hôm qua 11-3 (do Văn phòng Chính phủ, Bộ KHĐT và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - VCCI - cùng tổ chức), khái niệm về đầu tư nước ngoài đã được đưa ra mổ xẻ.
Theo Chủ tịch VCCI Vũ Tiến Lộc, ở góc độ kinh tế thuần túy việc duy trì đối xử khác biệt giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài (như quy định của Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp hiện nay) là hoàn toàn không có ý nghĩa. Bởi vì, vốn nào cũng là vốn, quan trọng là vốn đó có được sử dụng hiệu quả tới đâu chứ không quan trọng vốn đó là của ai!
Tuy nhiên, đứng ở góc độ quản lý Nhà nước, với các mục tiêu liên quan đến chủ quyền kinh tế cũng như lợi ích chính trị xã hội, lợi ích công cộng gắn với hoạt động kinh tế, hầu như các nước đều duy trì những cơ chế nhất định, có tính hạn chế hoặc kiểm soát hơn đối với đầu tư nước ngoài. Vấn đề là lựa chọn cơ chế nào phù hợp với bối cảnh và phương thức quản lý kinh tế của mỗi quốc gia để vừa đảm bảo các mục tiêu nói trên vừa thu hút đầu tư nước ngoài phát triển kinh tế trong nước.
Thực tế cho thấy luật hiện hành còn phân biệt đối xử đối với nhà đầu tư (doanh nghiệp) nước ngoài cả về thủ tục đăng ký kinh doanh - gia nhập thị trường và quyền kinh doanh. Theo ông Phan Đức Hiếu, Phó tổ biên tập Dự án Luật Doanh nghiệp sửa đổi, thì cách tiếp cận này là bất cập. Vì, đối với các phân biệt đối xử về thủ tục phần lớn chỉ là tạo thêm thủ tục cho nhà đầu tư nước ngoài về mặt giấy tờ, thời gian, chi phí chứ không góp phần vào việc thực hiện các mục tiêu nói trên. Do đó, sự phân biệt này là không cần thiết - nó cản trở nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Đối với các phân biệt đối xử về quyền kinh doanh (lĩnh vực, địa bàn, phạm vi hoạt động kinh doanh), hướng trực tiếp vào việc kiểm soát nhà đầu tư nước ngoài phục vụ các mục tiêu kinh tế - chính trị - xã hội nhưng hiệu quả quản lý trong thời gian qua còn hạn chế, do chưa xác định rõ ràng khái niệm nhà đầu tư (doanh nghiệp) nước ngoài.
Liên quan đến vấn đề này - khái niệm nhà đầu tư nước ngoài - trong Luật Đầu tư và các văn bản hướng dẫn chỗ thì nêu tỉ lệ vốn 51% mới là nhà đầu tư nước ngoài, chỗ quy định chỉ 1% cũng là nhà đầu tư nước ngoài. Và, trên thực tế, rất khó xác định khái niệm đầu tư nước ngoài trong các trường hợp sở hữu chéo, sở hữu có một phần vốn đầu tư nước ngoài do là doanh nghiệp kinh doanh thế hệ thứ 2, thứ 3…
Cách xác định doanh nghiệp nước ngoài
Để giải quyết những bất cập hiện nay, dự Luật Doanh nghiệp và dự Luật Đầu tư dự định xoá bỏ toàn bộ các phân biệt đối xử về thủ tục giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài cũng như giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài; nhưng vẫn duy trì các cơ chế đối xử khác biệt liên quan đến quyền kinh doanh (quy định phù hợp với các cam kết quốc tế).
Cụ thể, theo ông Phan Đức Hiếu, khái niệm về đầu tư nước ngoài có hai sự thay đổi cơ bản trong dự luật.
Một là áp dụng thống nhất các thủ tục của Luật Doanh nghiệp về thành lập doanh nghiệp, mua cổ phần, phần vốn góp đối với nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Tất nhiên, hoạt động đầu tư nước ngoài được xác định bao gồm góp vốn để thành lập một doanh nghiệp mới ở Việt nam; mua cổ phần, phần vốn góp của doanh nghiệp đã thành lập ở Việt Nam; mua lại cổ phần, phần vốn góp của cổ đông, thành viên của doanh nghiệp đã thành lập ở Việt Nam.
Hai là xác định rõ quyền thành lập doanh nghiệp, góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài theo nguyên tắc không hạn chế tỉ lệ phần vốn góp hoặc cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp Việt Nam trừ trường hợp bị hạn chế theo quy định của pháp luật chuyên ngành và cam kết quốc tế.
Nhà đầu tư nước ngoài được xác định bao gồm cá nhân có quốc tịch nước ngoài; tổ chức được thành lập ở nước ngoài và theo pháp luật nước ngoài.
Đối với doanh nghiệp được thành lập ở Việt Nam, nếu một hoặc các thành viên, cổ đông là người nước ngoài sở hữu từ 51% cổ phần phổ thông hoặc vốn điều lệ trở lên sẽ được coi là nhà đầu tư nước ngoài; trường hợp đa số thành viên hợp danh là người có quốc tịch nước ngoài (đối với công ty hợp danh) và chủ doanh nghiệp tư nhân là người nước ngoài cũng được xác định là đầu tư nước ngoài.
Như vậy, theo ông Vũ Tiến Lộc, mọi chủ thể (tổ chức, cá nhân) có vốn đầu tư nước ngoài chiếm trên 50% là nhà đầu tư nước ngoài. (Theo khái niệm này thì nhà đầu tư nước ngoài bao trùm doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nên không cần xác định khái niệm doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nữa!)
Về trường hợp chủ thể có vốn đầu tư nước ngoài thế hệ thứ 2 trở đi (trường hợp nhà đầu tư là doanh nghiệp liên doanh - có vốn trong nước và vốn nước ngoài - sử dụng vốn của mình đầu tư cùng chủ thể khác hình thành một doanh nghiệp liên doanh thế hệ thứ 2 và cứ thế tiếp theo…), theo ông Lộc, sẽ rất khó xác định rạch ròi đồng vốn nào là phần nước ngoài, đồng vốn nào là nội địa.
Vì vậy, ông Lộc đề xuất, nếu chủ thể đã được xác định là nhà đầu tư nước ngoài (có trên 50% vốn nước ngoài) thì toàn bộ các hành vi sau đó của chủ thể này (bao gồm cả việc đầu tư thành lập công ty con) sẽ được xem là hành vi của nhà đầu tư nước ngoài thuần tuý; ngược lại, nếu chủ thể đã được xác định là nhà đầu tư trong nước (có trên 50% vốn trong nước) thì khi đi đầu tư, kinh doanh mọi loại vốn mà chủ thể này bỏ ra đều được xem là vốn trong nước. Cứ như vậy cho các trường hợp đầu tư, sở hữu chéo tiếp sau.
Nguồn: dddn.com.vn
