Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Vốn đầu tư: Cần xung lực mới (07/05)

07/05/2014 - 16 Lượt xem


Vậy xung lực mới về vốn đầu tư hiện nay ra sao? Trước hết là quy mô vốn đầu tư, thể hiện ở tỷ lệ vốn đầu tư phát triển toàn xã hội/GDP.

Nhìn tổng quát, tỷ lệ vốn đầu tư phát triển toàn xã hội/GDP đã có xu hướng tăng lên trong thời gian từ 1996, nhưng đã giảm tương đối nhanh từ 2006-2010 đến nay. Tỷ lệ vốn đầu tư phát triển toàn xã hội/GDP quý I/2014 vừa thấp nhất trong hơn 20 năm qua, vừa thấp hơn chỉ tiêu kế hoạch cả năm nay. Thực hiện quý I/2014 so với cùng kỳ năm trước, nếu tính theo giá thực tế, tổng vốn tăng 3,8%, trong đó khu vực Nhà nước chỉ tăng 0,4%, riêng vốn đầu tư thuộc ngân sách Nhà nước còn bị giảm 2,3%; nếu loại trừ yếu tố tăng giá, thì còn giảm sâu hơn. Tháng 4, mặc dù lượng vốn thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước có cao hơn tháng 3 (15,2 nghìn tỷ đồng so với 13,8 nghìn tỷ đồng), nhưng tính chung 4 tháng mới đạt 27,5% kế hoạch cả năm (trong đó Trung ương đạt 25,2%, địa phương đạt 28,2%); đã bị giảm 0,9% so với cùng kỳ năm trước (trong đó Trung ương giảm 0,5%, địa phương giảm 1%).

So với kế hoạch năm, bên cạnh một số bộ, ngành, địa phương đạt tỷ lệ khá (như Bộ Giao thông vận tải, tỉnh Bạc Liêu, Kiên Giang, Nghệ An, Cà Mau, Phú Thọ, Thái Bình, Thanh Hóa, Tây Ninh, Lâm Đồng…), cũng có bộ, ngành, địa phương đạt thấp (như Bộ Y tế, Bộ Xây dựng, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài nguyên và Môi trường, TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đà Nẵng, Đồng Nai, Hà Nội, Hà Tĩnh…). So với cùng kỳ năm trước, ngoài một số bộ, ngành, địa phương tăng khá (như Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Cà Mau, Quảng Nam, Thái Bình, Hải Phòng, Tây Ninh,…) vẫn có một số bộ, ngành, địa phương giảm (như Bộ Xây dựng, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Y tế, Bộ Giao thông vận tải, Đà Nẵng, Quảng Ninh, Kiên Giang, Đồng Nai, TP. Hồ Chí Minh, Vĩnh Phúc…).

Khu vực ngoài Nhà nước quý I so với cùng kỳ năm trước tăng cao hơn tốc độ chung (6,9% so với 3,8%), nhưng còn chiếm tỷ trọng thấp (36,1%). Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện 4 tháng năm nay so với cùng kỳ năm trước tăng khá (6,7%), nhưng lượng vốn đăng ký giảm mạnh (40,9%).

Vấn đề đặt ra hiện nay là cần tạo xung lực mới về vốn đầu tư trên hai phương diện.

Ở phương diện thứ nhất là tăng tỷ lệ vốn đầu tư phát triển toàn xã hội/GDP ngang bằng với tỷ lệ theo chỉ tiêu kế hoạch đề ra cho năm nay (30%). Mặc dù đó vẫn còn là tỷ lệ cao hơn nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, nhưng tỷ lệ chi ở mức 28,4% như quý I thì giảm khá nhanh và đột ngột so với các năm trước và đó có thể là quá liều lượng. Tỷ lệ đầu tư/GDP nay đã ngang bằng hoặc thấp hơn tỷ lệ tích lũy thì cân đối kinh tế vĩ mô sẽ không còn bị mất cân đối lớn. Hơn nữa, lượng vốn ở trong dân đang bị tồn đọng dưới dạng vàng, ngoại tệ, bất động sản hiện còn rất lớn, lên đến vài chục tỷ USD, chẳng những lãng phí nguồn lực, tạo tình trạng vàng hóa, đô la hóa, tạo ra các cơn sốt nóng/lạnh trên các thị trường này. Cần có chính sách để khai thác các nguồn lực này.

Để khai thác, cần nhiều giải pháp. Trước hết là cần tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát để dòng vốn của doanh nghiệp và người dân không tìm đến trú ẩn vào vàng, ngoại tệ, bất động sản… mà yên tâm đầu tư trực tiếp vào sản xuất kinh doanh. Tiết kiệm tiêu dùng là cần thiết, nhưng tiết kiệm là để đầu tư trực tiếp, trong khi tốc độ tăng tiền gửi tiết kiệm (đầu tư gián tiếp) cao gấp rưỡi tăng trưởng tín dụng, bởi trong đó có một lượng tiền không nhỏ của các nhà đầu tư tạm trú vào đây do chưa yên tâm hoặc tìm được kênh đầu tư trực tiếp.

Một giải pháp nữa là đẩy nhanh tiến độ thực hiện vốn đầu từ ngân sách Nhà nước, từ vốn trái phiếu Chính phủ, từ vốn huy động khác - là những bộ phận vốn thuộc khu vực Nhà nước bị giảm tương đối sâu. Có các giải pháp về tài chính, tiền tệ để một mặt hỗ trợ sự ra đời của các doanh nghiệp mới, ngăn chặn tình trạng phá sản, ngừng hoạt động, thu hẹp sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp cũ, khuyến khích các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ mở rộng quy mô - một trong những hạn chế nổi bật hiện nay của doanh nghiệp Việt Nam. Tiếp tục giảm lãi suất vay mới, cơ cấu lại các khoản vay cũ với lãi suất còn cao để doanh nghiệp tiếp cận với vốn tín dụng.

“Không có bột không gột nên  hồ”- phải có vốn đầu tư mới có tăng trưởng.

Ở phương diện thứ hai là nâng cao hiệu quả đầu tư. Trong điều kiện lượng vốn giảm, trong điều kiện mở cửa hội nhập, để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh thì nâng cao hiệu quả đầu tư là có tầm quan trọng hàng đầu. Bài học của thời kỳ 2006-2010 và thời kỳ 2011-2013 cho thấy, trong điều kiện tỷ lệ vốn đầu tư phát triển/GDP giảm mạnh (từ 39,2% xuống 30,4% - tức là giảm gần 1/3), nếu giữ mức hệ số ICOR như thời kỳ 2006-2010 (6,2 lần) thì tăng trưởng GDP thời kỳ 2011-2013 sẽ chỉ còn 4,9%, nhưng tăng trưởng kinh tế thực tế đạt mức 5,64%, chủ yếu do hệ số ICOR ở mức xấp xỉ 5,4 lần, thấp hơn thời kỳ 2006-2010.

Để nâng cao hiệu quả đầu tư, cần có nhiều giải pháp, từ quy hoạch, giải phóng mặt bằng, thi công, giảm thất thoát, lãng phí đã được đề cập nhiều. Ngoài ra, cần chuyển dịch cơ cấu nguồn vốn, tức là giảm tỷ trọng vốn nhà nước (thông qua cổ phần  hóa, thoái vốn…), tăng tỷ trọng vốn ngoài Nhà nước… Làm như thế chẳng những khai thác được nguồn lực, mà còn nâng cao được hiệu quả đầu tư chung, vì hệ số ICOR của khu vực ngoài Nhà nước thấp nhất.

Nguồn: baodientu.chinhphu.vn