Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Chính sách của khu vực Đông Nam Á trước sự trỗi dậy của Trung Quốc (21/8)

21/08/2014 - 30 Lượt xem

Cân bằng lực lượng mang tính phòng ngừa

Các nước Đông Nam Á (ĐNA) luôn nhìn Trung Quốc với ánh mắt nghi ngờ pha lẫn sự lạc quan thận trọng bởi hai lý do: một là, những tiền lệ đã diễn ra trong lịch sử khi các triều đại và chính quyền Trung Quốc đã không ít lần can thiệp và mở rộng lãnh thổ về phía các nước ĐNA; hai là, do tâm lý lo ngại khi có một nước lớn lại phát triển quá nhanh ở bên cạnh và không biết liệu rằng cường quốc đó sẽ sử dụng sức mạnh của nó khi nào và như thế nào để giải quyết các mối quan hệ. Vị thế, sức mạnh vượt trội của Trung Quốc trong thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh đã tạo thêm  những lo ngại. Tranh chấp lãnh thổ (đặc biệt là sự kiện đặt dàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam), hoạt động hiện đại hóa quân đội cùng với việc Nga và Mỹ dần rút quân ra khỏi các căn cứ quân sự ở khu vực đã tạo ra cảm giác mất an ninh cho các nước vốn có truyền thống bị tác động rất nhiều bởi các nước ở ngoài khu vực. Vì thế, các nước ĐNA tìm cách cân bằng với Trung Quốc thông qua hai phương án: lôi kéo các cường quốc từ bên ngoài vào các vấn đề khu vực và tăng cường hợp tác nội khối.

- Hợp tác với các cường quốc từ bên ngoài:

Tăng cường quan hệ đối tác và tiến tới quan hệ chiến lược với Mỹ là một chính sách quan trọng. Khi Trung Quốc gia tăng khá nhanh ảnh hưởng tại khu vực ĐNA, Mỹ đã thể hiện tương đối rõ ràng về sự cần thiết gia tăng hợp tác với ASEAN, kể cả những nước không phải là đồng minh như Indonesia, Việt Nam. Những điều chỉnh mới trong chính sách của Mỹ với ĐNA đã được ASEAN nhiệt liệt hoan nghênh. Tháng 7/2009, ASEAN và Mỹ đã ký Hiệp ước Thân thiện và hợp tác (TAC), đây là một điểm nhấn quan trọng trong quan hệ ASEAN – Mỹ. Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN – Mỹ lần thứ hai (năm 2010) đã nêu rõ về tầm quan trọng của “giải quyết các bất đồng bằng phương pháp hòa bình” và “ tự do lưu thông hàng hải”, kể cả ở vùng biển Đông, đồng ý cùng hợp tác để mở rộng quan hệ thương mại đang trên đà phát triển. ASEAN hoan nghênh sự ủng hộ của Mỹ đối với cộng đồng, cam kết hợp tác với Mỹ trong các vấn đề liên quan đến năng lượng,  đầu tư, giáo dục, y tế, văn hóa…, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì đối thoại ở mức cao nhất giữa hai bên. Có thể nói rằng tiến trình Thượng đỉnh ASEAN – Mỹ đã được thể chế hóa. Trong thời gian tới, có thể ASEAN và Mỹ sẽ thiết lập một Hiệp định thương mại tự do (FTA) chung, đánh dấu cho sự thành công của chiến lược cân bằng giữa các nước lớn với ASEAN.

Các nước Đông Nam Á thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược với Nhật Bản. Trên cơ sở tồn tại ngày càng nhiều những lợi ích chung giữa ASEAN và Nhật Bản, trong thời gian qua, ASEAN đã hưởng ứng hầu hết các sáng kiến và nỗ lực của Nhật Bản trong thúc đẩy hợp tác khu vực. Trước những thay đổi lớn trên thế giới, Nhật Bản đã nỗ lực đa dạng hóa các quan hệ quốc tế của mình. ĐNA hiện là một trong những khu vực quan trọng nhất của thế giới và là đối tác thương mại lớn thứ hai của Nhật Bản sau Trung Quốc. ASEAN cũng là một trong những điểm đến hấp dẫn nhất của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Nhật Bản. Qua đó, Nhật Bản và ASEAN hi vọng tạo ra một khu vực sản xuất tập trung khổng lồ, có tầm vóc tương đương Trung Quốc. Bên cạnh đó, Chương trình Meekong – Nhật Bản, bao gồm hỗ trợ tạo điều kiện cho việc kết nối ASEAN; môi trường và biến đổi khí hậu; quản lý và phòng chống thiên tai; hợp tác công- tư về đầu tư cơ sở hạ tầng…. Năm 201, Nhật Bản thiết lập phái đoàn thường trực tại ASEAN nhằm hợp tác với ASEAN một cách hiệu quả hơn trong việc thực thi các kế hoạch hành động ASEAN – Nhật Bản cả trong hiện tại và tương lại, đồng thời hiện thực hóa các mục tiêu chùng của hai bên trong hợp tác khu vực.

Tăng cường quan hệ hợp tác với Ấn Độ. Ấn Độ và các nước ĐNA cũng có mối quan hệ truyền thống lâu đời, có những điểm tương đồng trong lợi ích an ninh chính trị. Ấn Độ đang nỗ lực thể hiện hết khả năng và sức hút của mình với chính sách “hướng Đông” đầy tham vọng. Mục tiêu của chính sách “hướng Đông” là hướng tới việc cải thiện quan hệ chính trị, kinh tế với khu vực và nỗ lực kiến tạo vị trí lớn hơn cho Ấn Độ ở châu Á – Thái Bình Dương đầy năng động. Một nhân tố giúp Ấn Độ chính là việc nhiều quốc gia trong khu vực coi sự trỗi dậy của Ấn Độ là tương đối “lành”, không mang lại nhiều tác động tiêu cực như sự trỗi dậy của Trung Quốc; đồng thời, động cơ cho chính sách đối ngoại của Ấn Độ khá minh bạch và quan trọng nhất là họ không có nhưng xung đột về lợi ích và lãnh thổ đối với các nước ĐNA.

- Tăng cường hợp tác nội khối:

Các nước ĐNA hợp tác để nâng cao sức đề kháng thông qua xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN và Cộng đồng Chính trị An ninh ASEAN. Nhận thức được sức mạnh và khả năng ảnh hưởng từ phía Trung Quốc, ASEAN đã chủ trương tăng cường sức mạnh chung của toàn khối. Một trong những chính sách để ASEAN đạt được mục tiêu nêu trên là việc xây dựng  Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC). Với AEC, ASEAN mong muốn hình thành một khu vực kinh tế ASEAN ổn định, thịnh vượng và có khả năng cạnh tranh cao, trong đó hàng hóa, dịch vụ, đầu tư sẽ được chu chuyển tự do hơn, kinh tế phát triển đồng đều, giảm đói nghèo và chênh lệch kinh tế - xã hội vào năm 2020. Việc hình thành AEC một mặt sẽ giúp ASEAN có được một vị thế lớn hơn và làm tăng sức cạnh tranh trên sân chơi quốc tế, điều mà nếu mỗi nước ASEAN chỉ đứng riêng rẽ thì khó lòng có được. Mặt khác, AEC sẽ giúp sự hợp tác kinh tế trong nội khối của ASEAN chặt chẽ hơn, giảm bớt nguy cơ chia rẽ của ASEAN để hòa tan vào nền kinh tế toàn cầu mà trong đó các nước nhỏ sẽ chịu sự chi phối của các nước lớn.

Cũng như Cộng đồng Kinh tế ASEAN, Cộng đồng An ninh – Chính trị ASEAN (APSC) là một trong ba trụ cột của ASEAN. Trong APSC, các thành viên của Cộng đồng sẽ thông qua tiến trình hòa bình để giải quyết các bất đồng trong khu vực và xem nền an ninh của họ như được liên kết với nhau một cách cơ bản và được bao bọc bởi vị trí địa lý, tầm nhìn và mục đích chung. Trong cuộc cạnh tranh giữa các nước lớn trong k hu vực hiện nay, khả năng các nước lớn sẽ thay đổi chính sách của họ với ĐNA là rất lớn. Trong trường hợp như cậy, khả năng một thành viên ASEAN nào đó có thể hi sinh các lợi ich chung của khu vực cho lợi ích của dân tộc họ là điều hoàn toàn có thể xảy ra. Bên cạnh đó, đối với một số nước ĐNA thì hợp tác khu vực chỉ là công cụ để đạt tới các lợi ích quốc gia. Khi lợi ích quốc gia không hoàn toàn phù hợp với lợi ích chung của khu vực, các quốc gia này có thể bỏ qua lợi ich khu vực để tìm kiếm lợi ích riêng của mình.

Từ những vấn đề trên,  ASEAN thông qua APSC nhằm thay đổi cách tiếp cận vốn có của một số nước trong tổ chức về vấn đề an ninh quốc gia và an ninh khu vực, đặt an ninh quốc gia của mỗi nước trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau với an nình chung của toàn khu vực. Làm được điều này sức đề kháng của khu vực sẽ tăng lên đáng kể, để thích ứng và đối phó với những biến động, những nguy cơ trong bối cảnh cạnh tranh giữa các nước lớn trong khu vực và trong đó có những nguy cơ đến từ sự trỗi dậy của Trung Quốc.

Khai thác lợi ích từ các cơ chế hợp tác kinh tế ASEAN – Trung Quốc
ASEAN muốn thông qua hợp tác kinh tế để kéo Trung Quốc vào các cơ chế đa phương trong khu vực do ASEAN làm chủ đạo nhằm ràng buộc và hạn chế những hành động đơn phương từ Trung Quốc.
Mặc dù phải đối mặt với nhiều thách thức từ Trung Quốc với tư cách là một cường quốc kinh tế, các nền kinh tế trong khu vực ĐNA nhìn chung vẫn giữ một cách tiếp cận tương đối tích cực trong bối cảnh này. Thay vì trực tiếp đối đầu với Trung Quốc như trực tiếp cạnh tranh trên thị trường quốc tế hoặc sử dụng các biện pháp bảo hộ thương mại, các nước ĐNA hợp tác với nhau bên cạnh việc lôi kéo Trung Quốc vào quá trình hợp tác. Phản ứng lại với sự trỗi dậy của Trung Quốc, không phải đồng nghĩa với việc ASEAN tách rời mối quan hệ về kinh tế với nước này bởi đây là điều không thể trong môi trường toàn cầu hóa hiện nay.

Ràng buộc Trung Quốc trong cơ chế hợp tác đa phương

Không có được lợi thế so sánh đối với Trung Quốc về các mặt kinh tế và quân sự, hơn nữa đứng trước bối cảnh một số quốc gia ĐNA (Philippines, Việt Nam…) đang có những tranh chấp chủ quyền trên biển với Trung Quốc, các nước ĐNA ít nhiều đều có sự lo ngại trước sự lớn mạnh của Trung Quốc. ASEAN muốn thông qua tiếp xúc, đối thoại an ninh, kéo Trung Quốc vào các cơ chế an ninh đa phương trong khu vực do ASEAN làm chủ đạo nhằm ràng buộc và hạn chế những hành động đơn phương từ phía Trung Quốc như: ASEAN+3; Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á…

Nguồn: http://www.ncseif.gov.vn