Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Cốt lõi vấn đề là năng suất lao động (26/8)

26/08/2014 - 23 Lượt xem

Đó là lúc các nhà đầu tư - đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài - bắt đầu có những hoạt động sôi nổi và căng thẳng. Họ đặt lên bàn những con số chi phí về đầu tư, chi phí về nhân công, chi phí đầu vào khác, các thông số về năng suất lao động, các chính sách liên quan của Việt Nam và so sánh với các nước khác để chuẩn bị cho các kế hoạch đầu tư trung và dài hạn.

Ở đây không bàn đến những vấn đề về môi trường đầu tư khiến nhiều nhà đầu tư nước ngoài còn ngán ngại như chính sách chưa nhất quán, thiếu tính khả thi, tình trạng tham nhũng, chi phí thuê đất tăng, công nghiệp hỗ trợ yếu kém… mà chỉ xem xét riêng khía cạnh lương tối thiểu.

Mức tăng lương tối thiểu dự kiến cho năm 2015 là 15% chắc chắn chưa có ảnh hưởng gì nhiều đến tính cạnh tranh của Việt Nam, nhưng các nhà đầu tư không chỉ nhìn vào năm 2015 mà họ đang nhìn đến năm 2020, 2025 và xa hơn. Điều gì sẽ xảy ra sau đó? Với mức tăng hàng năm được cho là sẽ dao động quanh con số 15% như kinh nghiệm một số năm vừa qua thì đến năm 2020 và 2025, mức lương tối thiểu lần lượt sẽ là 231% và 465% so với năm 2014. Mức tăng năng suất lao động liệu có bù đắp lại phần nào nhằm duy trì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và đất nước? Đây là một ẩn số hình như chưa có lời giải ở tầm vĩ mô và cả từng doanh nghiệp.

Đã có người đưa ra cái nhìn khá bi quan rằng mức tăng năng suất sẽ hoàn toàn không đáp ứng được mức tăng lương tối thiểu. Điều này không sai. Trong bài viết Lương tối thiểu và năng suất lao động trên TBKTSG tuần trước, tác giả đã dẫn ý kiến của chuyên gia Phillip Hazelton (thuộc ILO) cho rằng năng suất lao động của Việt Nam chỉ tăng 3,3% mỗi năm trong thời gian gần đây. Liệu các con số này có khiến các ông chủ lớn đang đầu tư hoặc dự định đầu tư vào Việt Nam yên tâm cho dù chúng ta có TPP, có FTA với EU?
Chúng ta sẽ làm gì để cải thiện tình hình này? Theo suy nghĩ cá nhân tôi, ít nhất chúng ta cần có những hành động như sau:

Đầu tiên, không nên chỉ bó gọn Hội đồng Tiền lương quốc gia (hội đồng) với chức năng duy nhất là thực hiện tư vấn cho Chính phủ về điều chỉnh, công bố mức lương tối thiểu vùng như Nghị định 49/2014, mà phải mở rộng chức năng, biến hội đồng này thành một cơ quan chuyên nghiệp tham mưu cho Chính phủ các hoạt động giúp nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia về tiền lương và năng suất lao động.

Hội đồng sẽ là cơ quan đề ra hệ thống những giải pháp tăng năng suất lao động cũng như thẩm định, đánh giá kết quả thực hiện các giải pháp này từ các bộ ngành, địa phương. Thành viên của hội đồng có thể vẫn giữ như cũ, nhưng cần có ít nhất ba cơ quan chuyên trách giúp việc cho hội đồng.

Thứ nhất là Ủy ban Năng suất lao động quốc gia. Ủy ban này chuyên nghiên cứu những điểm mạnh, yếu trong năng suất lao động quốc gia, những kinh nghiệm từ các nước và đưa ra các biện pháp tăng năng suất lao động. Hiện nay, chúng ta có Trung tâm Năng suất Việt Nam (VCP) nhưng trung tâm này trực thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng của Bộ Khoa học và Công nghệ, dưới hai tầng mũ nên hoạt động của VCP có phần hạn chế.

Thứ hai là Ủy ban Nghiên cứu mức sống và mức lương tối thiểu vùng. Ủy ban này chuyên nghiên cứu mức nhu cầu tối thiểu của người dân từng vùng trong từng thời kỳ, nghiên cứu về cách tính lương tối thiểu của các nước và cách áp dụng vào Việt Nam.

Thứ ba là Ủy ban Nghiên cứu tác động của tiền lương (đến người lao động, nhà đầu tư và năng lực cạnh tranh quốc gia).

Kế đến, cần có những quyết sách dài hạn và mạnh mẽ về năng suất lao động. Đây mới thực sự là vấn đề cốt lõi của mọi vấn đề. Giả sử rằng chúng ta có tăng được năng suất lao động 20% mỗi năm thì mãi đến năm 2019 mới bắt kịp mức năng suất của Thái Lan vào năm 2014, tương tự sẽ đến năm 2023 với Malaysia, và năm 2027 với Hàn Quốc (cần lưu ý trong thời gian này, năng suất lao động của các nước cũng sẽ tiếp tục tăng). Tăng cao năng suất lao động phải được xem là một mục tiêu có tính sống còn!

Dĩ nhiên, bên cạnh đó vẫn phải thực thi những giải pháp như kiểm soát lạm phát, kiểm soát lãng phí trong đầu tư công…

Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài Gòn