
Tin tức
Cơ hội và thách thức (05/9)
04/09/2014 - 15 Lượt xem
Lộ trình tới AEC 2015
Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), dự kiến sẽ được thành lập vào cuối năm 2015, được coi là bước ngoặt đánh dấu sự hòa nhập toàn diện các nền kinh tế Đông Nam Á, hòa nhập nền kinh tế của 10 quốc gia thành viên thành một khối sản xuất thương mại và đầu tư, tạo ra thị trường chung của khu vực có dân số 600 triệu người và GDP hàng năm khoảng 2.000 tỷ USD.
AEC sẽ giúp các DN mở rộng trao đổi thương mại, thu hút đầu tư, đẩy mạnh xuất khẩu, cắt giảm chi phí nhập khẩu, hạ giá thành sản phẩm, tiếp cận các thị trường rộng lớn hơn. Tuy nhiên, việc cạnh tranh về dịch vụ đầu tư của các nước ASEAN sẽ dẫn đến một số ngành, DN chịu cạnh tranh, phải thu hẹp sản xuất, thậm chí rút khỏi thị trường.
Phát biểu tại hội thảo “AEC 2015 và các Hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam đã tham gia” vừa diễn ra mới đây tại TP. Đà Nẵng, Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Cẩm Tú cho rằng, tác động trực tiếp và có lẽ lớn nhất trong việc hình thành AEC là trong lĩnh vực thương mại hàng hóa. Các nước sẽ mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam nhưng đồng thời Việt Nam cũng phải mở cửa cho hàng hóa cạnh tranh của các nước.
DN có lợi thế xuất khẩu sẽ ngày càng lớn mạnh hơn, trong khi DN có khả năng cạnh tranh yếu đối với hàng hóa nhập khẩu sẽ gặp thách thức nghiêm trọng.
Trong khi đó, ông Nguyễn Tiến Minh, Vụ trưởng Vụ ASEAN, Bộ Ngoại giao, cho rằng, hiện nay ASEAN vẫn đang đối mặt với các thách thức như thực thi đúng thời hạn và hiệu quả các biện pháp trong Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC, nâng cao nhận thức của người dân và DN về AEC.
Đối với Việt Nam, những thách thức chủ yếu liên quan tới năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và cơ sở hạ tầng kém phát triển so với các nước trong khu vực, bao gồm các yếu tố hạ tầng cứng (đường sá, cảng biển, năng lượng) và hạ tầng mềm (hệ thống pháp lý, bộ máy hành chính). Những lĩnh vực khó khăn trong thực thi AEC của Việt Nam bao gồm: hoàn thành các cam kết về cắt giảm thuế quan, giải quyết các rào cản phi thuế, thực thi các biện pháp thuận lợi hóa thương mại (cơ chế một cửa, tự chứng nhận xuất xứ)...
Theo ông Minh, cần phải đẩy mạnh cải cách hành chính, đặc biệt trong các lĩnh vực thương mại, dịch vụ, đầu tư nhằm cải thiện sức cạnh tranh của nền kinh tế cũng như tạo tiền đề cho việc triển khai các cơ chế tự do hóa khi hình thành thị trường chung ASEAN.
Bên cạnh đó, nghiên cứu các giải pháp nhằm tạo thuận lợi cho hội nhập của các ngành ưu tiên như nông sản, vận tải hàng không, ô tô, điện tử, công nghệ thông tin và viễn thông, thủy sản, y tế, logistics, cao su, dệt may, du lịch, sản phẩm gỗ… Đồng thời, nâng cao chất lượng phối hợp giữa các bộ, ngành thuộc trụ cột AEC của Việt Nam thông qua vai trò điều phối của Ủy ban Quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế.
Trong thông điệp của mình, Phó tổng Thư ký ASEAN Sundram Pushpanathan nêu rõ: Lộ trình tổng thể xây dựng AEC đang tiến triển thuận lợi. ASEAN đã tiến hành xóa bỏ thuế quan và triển khai các thỏa thuận thương mại tự do với các đối tác thương mại lớn kể từ ngày 1/1/2010. Tuy nhiên, việc thực hiện AEC vào năm 2015 đòi hỏi nhiều nỗ lực hơn nữa. Chính phủ, cộng đồng DN, công chúng và các Đối tác phát triển của ASEAN đều giữ vai trò quan trọng trong việc xây dựng thành công AEC.
Thách thức và giải pháp cho EWEC
Không hẹn mà gặp, cũng trong dịp này, tại thành phố bên bờ sông Hàn, UBND TP. Đà Nẵng đã phối hợp với Học viện Mekong (Thái Lan) tổ chức một cuộc hội thảo quốc tế với mục đích chia sẻ tác động của việc hình thành AEC 2015 đối với các địa phương trên Hành lang kinh tế Đông - Tây (EWEC), cũng như các cơ hội, thách thức và giải pháp để tăng cường hợp tác trên EWEC vì sự phát triển thịnh vượng của mỗi địa phương trên tuyến và của cả khu vực.
Nói về ý nghĩa của cuộc hội thảo này, Phó chủ tịch UBND TP. Đà Nẵng Huỳnh Đức Thơ nhấn mạnh, hội thảo sẽ là cơ hội để chính quyền và DN của các địa phương trên EWEC cũng như các tổ chức, cá nhân có thể nắm bắt được những tác động của việc hình thành AEC, qua đó nhanh chóng thích ứng với tình hình mới kể từ năm 2015. Không những vậy, hội thảo còn là dịp để các tổ chức quốc tế, các nhà tài trợ, các đối tác của ASEAN và các địa phương trên EWEC trao đổi nhằm đưa ra những định hướng cho sự hợp tác trong tương lai.
EWEC chính thức được thông tuyến vào năm 2006 khi cây cầu hữu nghị nối giữa Thái Lan và Lào được khánh thành đã tạo điều kiện phát triển kinh tế và hội nhập cho các nước Myanmar, Thái Lan, Lào, Việt Nam.
Trong hơn 8 năm qua, hàng loạt các hội thảo, chính sách, biện pháp liên chính phủ đã được thảo luận và triển khai như chính sách vận tải hàng quá cảnh, thủ tục kiểm tra hải quan cửa khẩu, giao thông tay lái nghịch, chính sách cư dân vùng biên giới... đã được ban hành, tạo cơ hội cho các quốc gia tiếp cận tốt hơn các nguồn tài nguyên khoáng sản, hải sản và năng lượng phục vụ cho các ngành sản xuất và chế biến. EWEC cũng góp phần phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng, đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa cho các thành phố, thị trấn nhỏ dọc hành lang, phát triển các hoạt động kinh tế mới.
Qua đó, hình thành các khu vực kinh tế xuyên Mê Kông, mở rộng thâm nhập vào các thị trường đầy tiềm năng của các nước thuộc khu vực Nam Á và Tây Á. TS. Watcharas Leelawath, Giám đốc Học viện Mekong dẫn chứng tỉnh Savanakhet (Lào), từ việc hoàn thiện đường 9 và các cầu quốc tế Mekong thứ 2 từ Mukdaham, Thái Lan và Savanakhet, ngành nông nghiệp đã tăng trưởng 7,2% so với 3,4% của cả nước. Tỉnh trở thành đơn vị xuất khẩu gạo và kim ngạch xuất khẩu tăng từ 63,1 triệu USD lên 151,8 triệu USD.
Nếu vào năm 2006, chỉ có khoảng 20 ngàn khách du lịch qua lại EWEC, thì con số đó đến năm 2013 đã tăng lên gần 10 lần. Tuy thời gian đi lại và thủ tục quá cảnh giữa các nước đã được rút ngắn đáng kể, nhưng vẫn chưa tạo ra những quy chuẩn thống nhất; lượng hàng hóa vận chuyển chưa có những chuyển biến mang tính đột phá. Khách du lịch từ Thái Lan qua Việt Nam được theo các đoàn xe tay lái nghịch, nhưng ngược lại từ Việt Nam qua Thái Lan đến nay cũng chỉ dừng lại ở cửa khẩu Lào - Thái.
Nhiều năm trước, lãnh đạo Cảng Đà Nẵng tổ chức nhiều đợt khảo sát nhằm khai thác các hoạt động logistic trên hành lang này, nhưng kết quả vẫn đang ở thì tương lai, vì chi phí vận chuyển hàng hóa về Đà Nẵng vẫn cao hơn 30-40% so với về Bangkok, dù đường ngắn hơn; thủ tục xuất nhập cảnh không thống nhất nhưng lại còn nhiều lỗ hổng cho buôn lậu, trốn thuế, kiểm dịch…
Nói như bà Yaowalak Apichatvullop, thuộc Đại học Khon Kean (Thái Lan), những hạn chế, tiêu cực ấy lại “gây ra những tổn thương hơn cả nạn nghèo đói”… Theo TS. Watcharas Leelwath, Giám đốc Học viện Mekong, hiện gánh nặng chi phí lưu chuyển hàng hóa của vùng rất lớn. Theo tính toán của học viện, nếu giảm 10% chi phí vận chuyển thì tỷ lệ tăng trưởng sẽ đạt thêm 4%. Do vậy, điều quan trọng là phải cải thiện các điểm giao dịch hải quan dọc EWEC.
Giám đốc Học viện Mekong còn đề cập đến những cơ hội và thách thức trên tuyến EWEC ở khía cạnh kinh doanh liên biên giới và phân tích khá kỹ về các dự án của tuyến EWEC được thiết kế không ngoài mục đích củng cố mối quan hệ hợp tác kinh tế Lào, Myanmar và Việt Nam; giảm chi phí vận tải và vận chuyển hàng hóa, di chuyển con người thuận lợi hơn; giảm nghèo thông qua phát triển khu vực nông thôn và biên giới.
Ông khẳng định: “Cho đến nay, chúng ta đã vượt qua một số thách thức vật lý và đảm bảo rằng những hành lang kinh tế thúc đẩy hội nhập kinh tế và kết nối giữa các tiểu vùng đã đạt được hiệu quả”.
Phó chủ tịch Huỳnh Đức Thơ cho biết, Đà Nẵng với vị trí là điểm cuối của tuyến EWEC, có nhiều thế mạnh để thúc đẩy phát triển thương mại, du lịch, dịch vụ. Chính quyền thành phố cam kết luôn tạo điều kiện thuận lợi để các DN, nhất là DN đến từ các nước trong khu vực đầu tư vào Đà Nẵng, góp phần phát huy thế mạnh của tuyến EWEC. Ông cũng đề nghị Đà Nẵng và Khon Kaen thảo luận xây dựng cơ chế phối hợp nhằm thúc đẩy hợp tác giữa hai bên trên các lĩnh vực thương mại, đầu tư và du lịch trong thời gian tới thực sự có hiệu quả.
Lạc quan hơn, TS. Lê Đăng Doanh cho rằng, AEC 2015 sẽ mở ra cơ hội và thách thức mới cho phát triển của các tỉnh miền Trung Việt Nam khi là cửa ngõ cho Lào, Bắc Thái Lan, Myanmar. Việc trở thành trung tâm dịch vụ cho Lào, Bắc Thái Lan và Myanmar nhất là dịch vụ logistics với hiệu quả vượt trội về thời gian và tiền bạc so với dịch vụ qua eo biển Malacca là khả quan.
Muốn vậy, cần phát triển hệ thống giao thông, vận tải và dịch vụ cảng biển. Ông Doanh cũng khuyến khích các tỉnh miền Trung Việt Nam có thể phát triển những trung tâm du lịch, nghỉ dưỡng, dịch vụ y tế, công nghệ thông tin để thu hút khách hàng từ Lào, Bắc Thái Lan và Myanmar. Có thể phát triển xuất khẩu lao động có chuyên môn trong khuôn khổ AEC. Đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm nông, thủy sản, công nghiệp sang các nước ASEAN.
Nguồn: Thời báo Ngân hàng
