Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Chia tay với "Luật khung, luật ống” ! (09/9)

09/09/2014 - 26 Lượt xem

Thế nhưng, khi Bộ Tài chính ban hành thông tư hướng dẫn nghị định này thì “siết lại, quy định DN phải đầu tư mua sắm máy móc thiết bị, nhà xưởng có giá trị 1 tỷ đồng  trở lên thì DN mới thuộc đối tượng được sử dụng hóa đơn giá trị gia tăng. Riêng việc xác định thời điểm có hiệu lực khi sang nhượng nhà, một việc tưởng chừng quá đơn giản nhưng giữa Bộ luật Dân sự và Luật Nhà ở cũng “đá” nhau. Luật Nhà ở quy định thời điểm có hiệu lực là khi hợp đồng đã được công chứng, Luật Dân sự quy định phải tiến hành thủ tục sang tên, nộp thuế trước bạ. Như vậy, khi tranh chấp, áp dụng luật nào, đến giờ vẫn chưa ngã ngũ.

Hệ lụy tất yếu

Từ trước đến nay, các Luật, pháp lệnh (sau đây gọi chung là Luật) ở nước ta đang được xây dựng theo nguyên tắc "Luật khung". Đó là hệ thống pháp luật có những biểu hiện cơ bản sau đây:

Một là, các văn bản luật có tính chất “khung”, có nhiều điều khoản chỉ dừng lại ở những quy định mang tính nguyên tắc hoặc chung nhất, chưa đạt đến một sự điều chỉnh cụ thể, rõ ràng và đầy đủ đến mức cần thiết, do vậy chưa thể áp dụng ngay vào thực tiễn. Đó là một thực tế không thể phủ nhận. Còn nhớ, trước đây, sau khi Quốc hội thông qua một đạo luật, nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An đã nói: "Luật khung, luật ống thế này thì quản lý được gì?"

Hai là, cần có các văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý thấp hơn quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật. Quan trọng hơn, những văn bản có giá trị thấp hơn nhằm hướng dẫn thi hành luật lại quá nhiều. Do đó, người dân và cộng đồng DN đã và đang như sa vào "một rừng luật"!

Ba là, nội dung của các luật chưa đầy đủ để có cơ sở quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành; do vậy, không ít trường hợp văn bản quy định chi tiết không chỉ dừng lại ở việc cụ thể hóa các điều luật đã có mà còn phải có thêm những quy định mới.

Việc áp dụng nguyên tắc “luật khung” phù hợp với nền kinh tế nước ta trong 20 năm qua vì các quan hệ xã hội – đối tượng điều chỉnh của luật - chưa hoàn thiện và ổn định, do đó, tính dự báo không cao; trình độ làm luật nói chung và của một số Ban soạn thảo còn thấp; áp lực rất lớn từ chương trình lập pháp hàng năm nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách trong quản lý kinh tế, xã hội; chưa có một quy trình lập pháp khoa học, việc quyết định xây dựng và ban hành một đạo luật chưa thực sự dựa trên những đề án đã được chuẩn bị kỹ càng về mặt chính sách và những định hướng nội dung điều chỉnh. Tuy nhiên, nguyên tắc "luật khung" tất yếu dẫn đến hệ quả pháp lý không tốt, tạo  ra sự thiếu minh bạch nghiêm trọng, gây phức tạp và khó khăn cho quá trình thực thi luật, phần nào kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế, văn minh pháp lý và tiến bộ xã hội.

Trước hết, "luật khung" tạo ra một hệ thống pháp luật gồm nhiều tầng nấc, nhiều cấp độ văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý khác nhau giữa lý thuyết và thực tế. Hiện nay, theo lý thuyết thì: Hiến pháp > Luật > Nghị định > Thông tư hướng dẫn. Song, trong thực tế thì ngược lại: một số điều của Hiến pháp chưa có hiệu lực thực tế nếu chưa có Luật. Luật ban hành chưa đi vào cuộc sống nếu chưa có Nghị định. Nghị định cũng bị "treo" nếu chưa có Thông tư hướng dẫn. Do đó trong thực tế cuộc sống Hiến pháp < Luật < Nghị định < Thông tư hướng dẫn hay nói cách khác, thông tư hướng dẫn của các Bộ, cơ quan ngang bộ là văn bản QPPL "to nhất".

Thứ hai, "luật khung" tạo ra một hệ thống pháp luật thiếu minh bạch, làm giảm niềm tin của người dân vào pháp luật. Đúng như đánh giá của Bộ Tư pháp "tình trạng nợ đọng văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh vẫn đang là nguyên nhân hạn chế hiệu lực thực tế của cả hệ thống pháp luật; chưa có cơ chế kiểm soát chặt chẽ việc xây dựng, ban hành thông tư dẫn đến nhiều văn bản không phù hợp với thực tế, còn hiện tượng thiên về thuận lợi cho cơ quan quản lý, chưa tôn trọng đầy đủ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức".

Thứ ba, "luật khung" tạo ra một hệ thống pháp luật thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ, có những mâu thuẫn, chồng chéo, gây khó khăn, phức tạp trong triển khai thi hành và áp dụng luật.

Thay đổi như thế nào?

"Luật khung" tạo ra một hệ thống pháp luật thiếu minh bạch, làm giảm niềm tin của người dân vào pháp luật.

Để tạo sự đột phá cần thiết, trong việc sửa đổi Luật ban hành VBQPPL (sửa đổi), cần từng bước tiến tới "chia tay" với "luật khung, luật ống". Tư tưởng đó đã được các đại biểu Quốc hội quán triệt trong dự thảo Luật Đầu tưLuật DN (sửa đổi). Tại kỳ họp thứ 30 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, ông Phan Trung Lý, Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội đã khẳng định: "Cần sớm đưa Luật vào cuộc sống, hạn chế hướng dẫn của Chính phủ". Theo đó, nhiều nội dung trong dự thảo luật (sửa đổi) được chuyển giao cho Chính phủ quy định chi tiết, căn cứ ý kiến góp ý của các đại biểu Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã yêu cầu quy định ngay trong Luật. Chẳng hạn, Điều 56 quy định về hình thức đầu tư ra nước ngoài; Điều 63 quy định chi tiết hồ sơ, thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài; Điều 65 quy định về hồ sơ về hồ sơ thẩm định, thời gian thẩm định, nội dung thẩm định đối với dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ...

Tuy nhiên, xoá bỏ hoàn toàn các văn bản quy định chi tiết như hiện nay là không khả thi. Vì vậy, trước hết, cần hạn chế việc ban hành các thông tư hướng dẫn của các Bộ và cơ quan ngang Bộ. Theo đó, đề nghị sửa lại điểm h khoản 2 Điều 3 dự thảo Luật như sau: "h)Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ đối với những luật được ban hành lần đầu và Pháp lệnh của UBTVQH". Điều đó có nghĩa là, việc ban hành thông tư hướng dẫn của các Bộ, cơ quan ngang Bộ chỉ được phép thực hiện với những luật mới ban hành lần đầu và pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Bởi, với những văn bản đó, đối tượng điều chỉnh còn nhiều biến động, khó có thể dự báo ngay trong văn bản luật.

Đối với những Luật sửa đổi hoặc Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật đã ban hành và đi vào cuộc sống đã có đủ điều kiện để luật hoá những quy định của Nghị định, chuyển nội dung các thông tư hướng dẫn vào Nghị định của Chính phủ. Do đó, không cần có thông tư hướng dẫn. Hơn nữa, giới hạn phạm vi của Thông tư hướng dẫn là nhằm mục đích hạn chế một bước tình trạng "luật khung"; thu hẹp dư địa của lợi ích cục bộ, lợi ích  nhóm thông qua việc ban hành thông tư hướng dẫn.

Quyết sách của Nhà nước, đặc biệt là những quyết sách liên quan đến an sinh xã hội, thuế, đầu tư nước ngoài, sẽ không thể phát huy tác dụng - thậm chí có thể mất tác dụng - nếu không đáp ứng kịp thời đòi hỏi của thực tiễn. Vì vậy, rất nên lấy việc cương quyết từ bỏ “truyền thống” ban hành thông tư, nghị định hướng dẫn thi hành luật làm mục tiêu cấp bách của cải cách tư pháp, cải cách hành chính.


Nguồn: DDDN