Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Xử lý nợ xấu: Kỳ vọng từ đột phá chính sách (13/10)

13/10/2014 - 22 Lượt xem

Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của hệ thống NH đặt ra từ nay đến hết năm 2014 và cả năm 2015 là tiếp tục xử lý nợ xấu, đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu. TS. Trần Hoàng Ngân – Thành viên Hội đồng tư vấn tài chính tiền tệ quốc gia đánh giá, trước khi VAMC được thành lập, ngành NH đã chủ động sử dụng, phát huy nội lực để triển khai các giải pháp tự xử lý nợ xấu như: cơ cấu lại nợ, tích cực thu nợ, xử lý tài sản bảo đảm; sử dụng dự phòng rủi ro (DPRR) để xử lý nợ; tiết giảm chi phí, hạn chế tăng lương, thưởng, thù lao, chia cổ tức, lợi nhuận để tập trung trích lập DPRR...

Điều mà các chuyên gia đánh giá cao trong quá trình xử lý nợ xấu đó là tư duy của các NHTM đã thay đổi. Nếu như trước đây, các TCTD thường giấu nợ xấu để giảm trích lập DPRR và có thêm nguồn tiền để chia cổ tức, chia lợi nhuận… thì đến thời điểm này, các TCTD rất tích cực trích lập DPRR. Trong 3 năm vừa qua, trung bình mỗi năm trích được 70.000 tỷ đồng để xử lý nợ xấu.

Đặc biệt, phần lớn các TCTD đã không chia cổ tức mà dành nguồn tiền này để dự phòng vốn điều lệ, nâng cao thêm năng lực tài chính của các TCTD. Nếu về tính con số tuyệt đối, trong 3 năm qua hệ thống NH đã xử lý được hơn 249.000 tỷ đồng nợ xấu. Loại trừ 86.000 tỷ đồng được xử lý qua VAMC thì giá trị nợ xấu còn lại đã được xử lý từ nguồn trích dự phòng của các TCTD. Đến hết tháng 7/2014, con số dự phòng mà các TCTD đã trích lập đạt tới 78.000 tỷ đồng và đây là “của để dành” để các TCTD tiếp tục xử lý thêm nợ xấu từ nay đến cuối năm.

TS. Trần Du Lịch – Phó Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội TP. Hồ Chí Minh nhận xét: các giải pháp xử lý nợ xấu của cả hệ thống NH đạt được kết quả ban đầu, nhưng còn tiềm ẩn rủi ro. Theo báo cáo của các TCTD, đến tháng 7/2014 tỷ lệ nợ xấu là 4,11%, có cao hơn so với mức khoảng 3,9% của cuối năm 2013. Nhưng tại thời điểm đó, theo Cơ quan Thanh tra, giám sát (NHNN) nợ xấu là khoảng 8%. Sở dĩ có con số “vênh” như trên là do NHNN cộng thêm khoảng 157.000 tỷ đồng nợ được các TCTD cơ cấu lại nhưng tiềm ẩn khả năng chuyển thành nợ xấu.

Nguyên nhân chính nợ xấu lại tiếp tục phát sinh do nợ của DN tác động lây lan dây chuyền và việc cơ cấu lại nợ trong năm 2013 chỉ mang ý nghĩa tình thế, trong khi những DN vướng nợ chưa có khả năng phục hồi. Do đó, một khi kinh tế trì trệ thì nợ xấu không thể giải quyết nhanh được. “Kinh tế trì trệ với nợ xấu có mối quan hệ nhân quả, cái này chưa tốt sẽ kéo cái kia xấu theo” - ông Lịch lý giải.

Đến thời điểm này, vị chuyên gia này khẳng định nợ xấu không chỉ là vấn đề của riêng ngành NH mà cả nền kinh tế. Sự phối hợp giữa các ngành để xử lý tổng thể về thị trường trong tái cơ cấu NH và xử lý nợ xấu chưa chặt chẽ và có hiệu quả. Và ông Lịch cũng đồng tình với nhận xét của các chuyên gia rằng, thời gian qua, kết quả đạt được về tái cơ cấu NH và xử lý nợ xấu chủ yếu do những nỗ lực và sự chủ động của ngành NH.

Xử lý nợ xấu là một vấn đề rất phức tạp, mất nhiều thời gian và tốn kém, cần phải có những giải pháp đột phá, khả thi mới có thể xử lý hiệu quả, triệt để. Vì thế, ông Lịch cho biết đã gửi đề xuất hệ thống giải pháp xử lý nợ xấu lên Hội đồng tư vấn tài chính tiền tệ quốc gia, NHNN.

Cụ thể, theo ông Lịch cần có sự can thiệp của Quốc hội hoàn thiện khuôn khổ pháp lý một số luật liên quan trực tiếp đến các đối tượng tham gia quá trình xử lý nợ xấu như Luật Đất đai, Nhà ở Kinh doanh bất động sản. Cơ chế phối hợp trung ương - địa phương cũng là vấn đề cần phải được cải thiện trong thời gian tới. Từ mô hình kết nối NH – DN mà UBND các tỉnh; thành phối hợp với NHNN trên địa bàn thực hiện trong hơn 1 năm qua đã giải quyết kịp thời khó khăn tín dụng cho DN, cho thấy sự vào cuộc mạnh mẽ của chính quyền địa phương rất quan trọng.

Vậy nên, vị chuyên gia này đề nghị chính quyền các địa phương cần chủ động và tích cực phối hợp với NHNN tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong việc xử lý nợ xấu, hỗ trợ sản xuất kinh doanh, thúc đẩy thị trường bất động sản, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách quản lý… nhằm tạo môi trường thuận lợi cho xử lý nợ xấu của TCTD và hoạt động của VAMC.

Để có thể đưa nợ xấu toàn hệ thống về mức 6% như kỳ vọng, lãnh đạo một NH nhận định, không còn phương pháp thần kỳ nào giúp giảm nợ xấu nhanh bằng bán nợ xấu cho VAMC. Theo vị này, thời điểm này, bên cạnh việc đôn đốc khách hàng trả nợ thì bán nợ cho VAMC là cách tốt nhất giúp NH giải quyết nhanh bài toán nợ xấu ra khỏi hệ thống NH. Vị này tiết lộ thêm, cơ quan quản lý VAMC đang đề xuất chỉ nên yêu cầu các NH trích lập 10% DPRR khi bán nợ cho VAMC thay vì 20% như hiện nay.

Thống đốc NHNN cũng hy vọng bên cạnh nỗ lực của các NH cùng với sự tích cực vào cuộc của VAMC, nợ xấu của TCTD sẽ được xử lý một bước căn cơ. Song, Thống đốc Nguyễn Văn Bình cũng nhấn mạnh, để đẩy nhanh hơn việc xử lý nợ xấu, ngành NH phải có thêm nhiều cơ chế mới, tạo thêm năng lực pháp lý cũng như năng lực tài chính.

NHNN tiếp tục tạo môi trường thông thoáng, đặc biệt là cơ sở pháp lý cho việc xử lý, bán nợ, tài sản bảo đảm tiền vay theo hướng trao quyền chủ động nhiều hơn cho VAMC và các TCTD trong việc thu giữ, xử lý tài sản bảo đảm tiền vay đi đôi với việc tăng cường tính minh bạch, công khai trong bán, xử lý nợ xấu và tài sản bảo đảm.

TS. Trần Hoàng Ngân – Thành viên Hội đồng tư vấn tài chính tiền tệ quốc gia

Đòi hỏi nghệ thuật điều hành chính sách

Con đường hệ thống NH xử lý nợ xấu đang đi đúng hướng. Nhất là động thái thời gian qua, khi các NHTM đã tích cực trích lập DPRR để xử lý nợ xấu cho thấy, họ đã chịu trách nhiệm trước tiên về hậu quả nợ xấu. Chính vì lẽ đó hơn 2 năm vừa qua mới xử lý được hơn 200 nghìn tỷ đồng nợ xấu.

Nhưng nợ xấu chỉ là bề nổi, sự hồi phục bên trong cơ thể mới là quan trọng. Đó là sự tăng trưởng của nền kinh tế cũng như sức khỏe của hệ thống NH rồi thị trường bất động sản... Và, khi nền kinh tế chưa tăng mạnh trở lại, bài toán nợ xấu sẽ không thể giải quyết nhanh được mà phải có từng bước.

Vì vậy, để xử lý hiệu quả nợ xấu, tôi cho rằng, việc đầu tiên trong thời gian tới là hệ thống NH tiếp tục con đường đã đi nhưng cần có thêm một số giải pháp hỗ trợ. Cụ thể: thay vì yêu cầu các TCTD trích 20% DPRR cho khoản nợ xấu bán cho VAMC thì chỉ nên ở mức 10 – 12% bởi nếu để mức trích DPRR cao quá, ăn vào vốn NH thì họ sẽ kiệt sức.

Thứ hai, nếu các NH đem trái phiếu đặc biệt của VAMC đến NHNN chiết khấu thì tỷ suất chiết khấu phải cao, lãi thấp, thời hạn phải dài hơn. Đồng thời cần thiết có thông tư liên bộ giữa NHNN, Bộ Tài chính, Bộ Công an và Bộ Tài nguyên & Môi trường để giải quyết nợ xấu như năm 2001 chúng ta đã từng có một Thông tư liên tịch (Số 03) đã giúp triển khai rất hiệu quả như. Tôi nhớ là nợ xấu năm 1998 – 1999 là 15%, nhưng đến năm 2003 đã về dưới 5%.

Tôi nghĩ rằng, cách giải quyết nợ xấu của Việt Nam khá đặc thù vì ngân sách không có tiền tươi thóc thật như các nước khác nên phải dùng nghệ thuật điều hành chính sách

Phó Tổng giám đốc HSBC việt nam Phạm Hồng Hải

Đối diện với thực tế

VAMC đã được thành lập hơn 1 năm và đã mua được một lượng lớn nợ xấu từ các NHTM. Có thể thấy, VAMC hầu như vẫn chưa bán được nợ xấu ra thị trường, đặc biệt cho các nhà đầu tư nước ngoài, do vướng một số quy định của luật về người nước ngoài không được sở hữu bất động sản mà tài sản thế chấp của các khoản nợ xấu đa phần là bất động sản. Ngoài ra, giá bán nợ xấu ra thị trường cũng là vấn đề do đa phần các nhà đầu tư nước ngoài sẽ kỳ vọng vào giá được chiết khấu nhiều trong khi VAMC chưa chắc muốn bán ở mức giá này.

Cách xử lý nợ xấu thông qua VAMC cũng rất đặc biệt khi VAMC hầu như không có đủ vốn nhưng vẫn mua giá trị nợ xấu lớn bằng trái phiếu đặc biệt. Cách làm này sẽ không xử lý dứt điểm được nợ xấu, trừ khi VAMC có thể bán được nợ xấu ra thị trường. Việc áp dụng đầy đủ các yêu cầu của Thông tư 02 sẽ giúp cho chúng ta đối diện với nợ xấu thực tế và tạo áp lực phải giải quyết nợ xấu. Ðể đẩy nhanh tốc độ xử lý nợ xấu, chúng ta không nên chỉ trông chờ vào VAMC. Kinh nghiệm của các nước cho thấy cách giải quyết nợ xấu tốt nhất là đối diện với thực tế nợ xấu và giải quyết nó.

Tổng giám đốc OCB Nguyễn Đình Tùng

Xét lại mức trích lập DPRR cho phù hợp

Đến giờ phút này giảm nợ xấu đối với các NH là điều sống còn, không ai giục mà tự họ phải làm. Vấn đề rủi ro từ nợ xấu liên quan đến lợi nhuận thậm chí sự tồn vong của NH. Cho nên bằng mọi cách, mọi biện pháp các NH vẫn phải tiếp tục tập trung xử lý nợ xấu. Các giải pháp xử lý nợ truyền thống đang được các NH thực hiện: cơ cấu lại nợ, trích lập DPRR, bán thanh lý tài sản bán nợ VAMC…

Về cơ bản, các biện pháp xử lý nợ xấu của tôi không mới mà chỉ là có cơ chế để các chủ thể tham gia các biện pháp này thay đổi nhiều hơn, tốc độ triển khai dồn dập, cao hơn trước. Ví dụ trước đây chỉ có các NH làm việc với nhau giờ có chủ thể mới, NĐT mới tham gia tái cấu trúc DN. Hay có thể NH thay vì bán cho VAMC có thể bán cho DATC, hoặc có thể bán cho các tổ chức khác có khả năng mua nợ.

Và để giải quyết nhanh nợ xấu, tôi nghĩ rằng bán nợ cho VAMC luôn là giải pháp NH lựa chọn. Thế nhưng mức trích lập dự phòng cho khoản nợ bán cho VAMC nên tính toán lại cho phù hợp với thực tế hơn. Ví dụ, khi TCTD bán nợ cho VAMC và mỗi năm trích 20% dự phòng và coi như 5 năm khoản nợ được trích đủ. Giải pháp này nghe ra có vẻ hợp lý. Nhưng nhiều khi có khoản nợ có đảm bảo cao, rủi ro lại không đến mức độ mất vốn, mà phải trích 100% trong 5 năm thì coi như mặc nhiên khoản đó là mất vốn rồi thì lại không hợp lý. Hiện NH đã có nhiều khoản nợ bán cho VAMC, trong đó có những khoản nợ chỉ bán sau 1 - 2 tháng NH đã không những thu được gốc mà thu cả lãi. Trong lúc đó theo quy định TCTD yêu cầu trích ngay 20% dự phòng thì cao quá, không phản ánh đúng thực chất các khoản nợ mà còn tạo ra gánh nặng chi phí tài chính cho các NH. Vì vậy, theo tôi, nên phân tích lại và đưa mức trích lập DPRR hợp lý hơn.

Nguồn: Thời báo Ngân hàng