
Tin mới
An nguy nợ công phụ thuộc vào dùng vốn (24/10)
24/10/2014 - 28 Lượt xem
Với một đất nước đang phát triển như Việt Nam, nhu cầu đầu tư là rất lớn. Tuy nhiên, khi ngân sách không cân đối được thì phải đi vay, dẫn tới nợ công tăng. Đây cũng chính là mối quan tâm mà nhiều đại biểu Quốc hội bàn luận. “Không nên cực đoan đến mức không có nợ”, TS. Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) nói. “Quan điểm của tôi là đầu tư công mà có hiệu quả thì luôn luôn cần và quan trọng cho đất nước”.
Chia sẻ quan điểm trên, TS. Trương Văn Phước, Phó chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia (NFSC) nói với phóng viên TBNH: “Với tư cách là một cử tri, tôi không đồng tình với một số ý kiến đã đẩy vấn đề nợ công, nợ xấu lên thái quá”.
Bởi, khuôn khổ pháp luật đã cho phép Chính phủ điều hành nợ công trong phạm vi trần là 65% GDP. Nếu chúng ta hình dung nợ công và nền tài chính cũng như nền tài chính trong một gia đình, khi đã định một khoản được phép chi tiêu trong một thời gian thì khi thời gian chưa hết, tiêu mới gần hết mà sao đã mắng? Nhưng nếu tiêu hoang phí, tiêu quá giới hạn thì đúng là không được. Cảnh báo về nợ công là cần thiết, nhưng không nên trầm trọng hóa vấn đề.
Với ông Đức Thành, nỗi lo không phải ở số nợ là bao nhiêu, tăng nhanh ở tốc độ nào mà quan trọng là hiệu quả sử dụng nợ công chưa cao. Một phần do hiệu quả quản lý ở cấp chính quyền địa phương khá lỏng lẻo. Phần khác do tài chính công bị chia cắt cho nhiều nhiệm vụ như chi thường xuyên và chi an sinh xã hội tăng nhanh. Trong đó, chi thường xuyên đang chiếm tỷ trọng rất lớn. Nhưng dường như câu chuyện giảm chi thường xuyên không dễ thực hiện, bởi còn nhiều điều ràng buộc, lấn cấn. Cần giảm chi thường xuyên để giảm thâm hụt ngân sách vì khi ngân sách còn mất cân đối còn thâm hụt thì còn phải đi vay. Đó là giải pháp giảm nhẹ gánh nặng nợ công hiện nay, theo quan điểm của TS. Nguyễn Đức Thành và TS. Đinh Tuấn Minh.
Nhưng, theo TS. Trương Văn Phước thì giải quyết mất cân đối thu - chi của tài chính công không dễ như thế. Bởi theo ông, có 2 vấn đề: Thứ nhất, thực trạng tình hình tài chính quốc gia và nợ công hôm nay là hệ quả từ cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư của cả một quá trình dồn lại. Thứ hai, chi thường xuyên nhiều cũng do nhu cầu chi trong điều kiện lịch sử, xã hội nhất định, phải bảo đảm mức lương cho hệ thống, bảo đảm an sinh xã hội cho những người có công, các gia đình cách mạng… Nhưng, vấn đề là làm sao chi cho đúng, không thất thoát lãng phí và vay làm sao cho đúng, tính toán sao cho việc vay nợ khớp với dòng tiền trả nợ. Ông Phước cũng khẳng định: “Không vỡ nợ được đâu vì cơ cấu vay đang hợp lý”.
Phó chủ tịch NFSC cũng lưu ý, điều quan trọng không phải là vay nữa hay không, vay nhiều hay ít mà là hiệu quả sử dụng đồng vốn chưa cao. “Nếu như tất cả các khoản đầu tư công có hiệu quả tốt thì chắc chắn nền kinh tế đã phát triển ở tầm cao. Nhưng khổ nỗi tính hiệu quả trong các đồng vốn không cao như chúng ta mong muốn, vì thế mới phải tái cơ cấu. Cụm từ tái cơ cấu đã nói lên tất cả”, ông Phước bày tỏ.
TS. Võ Trí Thành, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cũng có bình luận về nợ công dung hòa ở cả góc độ của chuyên gia kinh tế và ở góc độ người điều hành. Ông nói, hãy hình dung như một gia đình không thể tránh được lúc cần chi tiêu cho những việc quan trọng thì phải vay, nhưng khoản vay đó phải trong khả năng trả được nợ. “Bản chất sâu xa của mọi lo lắng là đầu tư chưa hiệu quả”, ông Thành chia sẻ với các quan điểm lo ngại về nợ công xuất phát từ quy mô nợ công tăng và dòng tiền trả nợ đang lớn dần trong bối cảnh ngân sách lại đang eo hẹp.
Bởi phân tích rủi ro của nợ công trong tổng thể nợ công với các chỉ số kinh tế vĩ mô, với nhiều chỉ số đã cải thiện nhưng vẫn kèm rủi ro, theo TS. Võ Trí Thành, chắc Việt Nam vẫn phải tiếp tục vay nợ, nhưng phải có những cách thức quản trị để sử dụng hiệu quả và giảm thiểu rủi ro.
Ông phân tích: Thứ nhất là rủi ro nợ công liên quan đến rủi ro kinh tế vĩ mô chung, nên việc tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, lành mạnh hệ thống tài chính NH là điều quan trọng. Thứ hai là liên quan đến những cam kết gắn với ổn định, đặc biệt là cam kết và tầm nhìn trung hạn về sự lành mạnh hóa tài chính công, giảm thâm hụt ngân sách, tầm nhìn về kế hoạch đầu tư trung hạn. Thứ ba là các dự án đầu tư phải hiệu quả, theo nghĩa hiệu quả của chính dự án có tác động lan tỏa trong nền kinh tế. Thứ tư là vấn đề giải trình và sự giám sát chặt chẽ. Làm được những điều như thế, theo ông Thành, mới tạo được lòng tin thị trường và sẽ giúp có được những dòng tiền mới góp phần đảm bảo khả năng trả nợ tốt hơn.
Trong điều kiện kinh tế phát triển không thuận lợi, thu ngân sách Nhà nước có nhiều khó khăn nhưng vẫn phải giảm thu để hỗ trợ DN. Và phải tập trung nguồn vốn ngân sách và huy động trái phiếu Chính phủ cho đầu tư phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng. Đồng thời, còn phải dành phần lớn để thực hiện các chính sách xã hội và tiền lương. Mặt khác, cơ cấu vay ưu đãi nước ngoài có xu hướng giảm qua các năm do Việt Nam đã bước vào nhóm nước có thu nhập trung bình nên tỷ trọng vay trong nước tăng lên và việc huy động trái phiếu Chính phủ chủ yếu là dưới 5 năm dẫn đến nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ trong ngắn hạn tăng lên. Trong bối cảnh đó, chúng ta vẫn bảo đảm trả nợ đầy đủ, không để phát sinh nợ quá hạn…
Dự kiến dư nợ công năm 2015 là 64%, năm 2016 là 64,9%, năm 2017 là 64%, đến năm 2020 giảm còn 60,2% GDP. Dư nợ Chính phủ năm 2015 là 48,9%, năm 2016 là 49,5%, năm 2017 là 49%, đến năm 2020 giảm còn 46,6% GDP. Dư nợ nước ngoài của quốc gia năm 2015 là 42,6%, năm 2016 là 46,9%, năm 2017 là 46,8%, đến năm 2020 giảm còn 46% GDP.
Trích Báo cáo của Thủ tướng Chính phủ tại phiên khai mạc Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII
Nguồn: Thời báo Ngân hàng
