
Tin tức
5 câu hỏi lớn để tăng trưởng bền vững (07/11)
07/11/2014 - 28 Lượt xem
Theo đó, cần trả lời được các câu hỏi: Người lao động được đào tạo ở đâu? Khoa học công nghệ (KHCN) ở đâu? Vốn từ đâu? Đất ở đâu? Thị trường ở đâu?
Xuất phát điểm của Việt Nam và các nước là rất khác nhau về trình độ phát triển như: Hạ tầng cơ sở, nguồn nhân lực, thiết bị, công nghệ, cơ cấu nền kinh tế, trình độ KHCN, mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Việt Nam lại bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, mới bắt tay vào công cuộc xây dựng lại và phát triển đất nước từ năm 1975, đó là khó khăn tự thân của đất nước trong quá trình phát triển kinh tế so với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới.
Quá trình phát triển đòi hỏi phải có vốn đầu tư, tăng vốn đầu tư để
cơ khí hóa, tự động hóa, tin học hóa sản xuất. Một nước nghèo thì khả
năng tự tiết kiệm để đầu tư là hạn chế, vì vậy phải có một quá trình
tích lũy vốn và đầu tư hàng chục năm mới thực hiện được cơ khí hóa, cơ
giới hóa, tự động hóa, tin học hóa nền kinh tế.
Thực tế, từ năm 2000 đến 2013, mặc dù khoảng cách về vốn đầu tư toàn xã
hội/người lao động của các nước so với Việt Nam đã được thu hẹp đáng kể,
nhưng mức độ chênh lệch vẫn còn lớn: Nhật Bản gấp Việt Nam 76 lần năm
2000 giảm xuống còn 20 lần vào năm 2013; Singapore gấp 66 lần giảm xuống
còn 22 lần; Hàn Quốc gấp hơn 34 lần giảm còn 21 lần; Malaysia gấp gần
11 lần giảm còn 6,5 lần; Thái Lan gấp 3,5 lần giảm còn gần 3 lần. Khả
năng tự tích lũy để tái đầu tư thấp dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp
Việt Nam chưa tham gia đầy đủ vào tất cả các khâu của chuỗi sản xuất
hàng hóa, do đó giá trị gia tăng tạo ra chưa cao.
Thêm nữa là trình độ công nghệ thấp, lạc hậu đang cản trở phát triển bền vững của đất nước. Theo kết quả tổng điều tra doanh nghiệp trong giai đoạn 2000-2011, mặc dù có xu hướng giảm dần nhưng tỷ lệ các doanh nghiệp sử dụng công nghệ thấp vẫn chiếm bình quân gần 60% tổng số doanh nghiệp tham gia điều tra. Các doanh nghiệp sử dụng công nghệ trung bình thấp chiếm gần 29%. Các doanh nghiệp sử dụng công nghệ trung bình cao chiếm tỷ lệ khoảng 10%. Các doanh nghiệp sử dụng công nghệ cao chỉ chiếm khoảng 2%. Để khắc phục tình trạng này phải tăng đầu tư để bổ sung và hiện đại hóa thiết bị công nghệ ở hầu hết các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Trong môi trường quốc tế cạnh tranh ngày càng gay gắt, hiện nay, KHCN
được xem là công cụ chiến lược để phát triển kinh tế - xã hội một cách
nhanh chóng và bền vững. Thực tế này đang đặt ra cho chúng ta (cả ở cấp
độ vĩ mô và vi mô) những yêu cầu bức thiết về đổi mới công nghệ, về sự
tồn tại và phát triển của bản thân mỗi doanh nghiệp và cả quốc gia.
Đổi mới công nghệ là việc chủ động thay thế phần quan trọng (cơ bản, cốt
lõi) hay toàn bộ công nghệ đã, đang sử dụng bằng một công nghệ khác
tiên tiến hơn, hiệu quả hơn. Đổi mới công nghệ có thể chỉ giải quyết bài
toán tối ưu về các thông số của quá trình sản xuất như: năng suất, chất
lượng, hiệu quả… hoặc có thể nhằm tạo ra một sản phẩm, dịch vụ mới phục
vụ thị trường. Đổi mới công nghệ cũng có thể trên cơ sở đưa ra hoặc ứng
dụng những công nghệ hoàn toàn mới chưa có trên thị trường hoặc là
thông qua việc chuyển giao công nghệ…
Nền kinh tế nước ta hiện vẫn sử dụng nhiều lao động trong nông nghiệp
và trình độ lao động nói chung vẫn còn thấp. Mặc dù cơ cấu kinh tế Việt
Nam hiện nay đang từng bước chuyển dịch từ nông nghiệp sang công nghiệp
và dịch vụ, nhưng lao động nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Năm
2014, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chỉ đóng góp khoảng 18% GDP
nhưng chiếm đến 47% tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh
tế.
Ở các nước trong khu vực, tỷ lệ lao động nông nghiệp thấp hơn nhiều:
Thái Lan - 39%, Trung Quốc - 34%, Malaysia – 11%, Hàn Quốc – 6,5%, còn
Singapore chỉ có khoảng 1% lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp.
Đồng thời, tỷ lệ lao động qua đào tạo của Việt Nam mặc dù tăng dần qua
các năm nhưng vẫn còn ở mức thấp: năm 2000 – 16%, năm 2005 – 26,2%, năm
2010 – 40%, năm 2013 ước đạt 49%. Trong khi đó, tỷ lệ lao động qua đào
tạo của Singapore năm 2013 là 61,5%, Hàn Quốc là 62%. Điều này đặt ra
yêu cầu cấp thiết phải khẩn trương tiến hành có hiệu quả tái cơ cấu
trong giáo dục – đào tạo để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, bổ sung
cho thị trường nguồn nhân lực chất lượng cao dồi dào.
Có một thực tế nữa ở nước ta hiện nay là nhu cầu phát triển kết cấu hạ tầng của các địa phương là rất lớn trong khi khả năng đáp ứng của ngân sách trung ương lại rất hạn chế. Có không ít tỉnh/thành phố vẫn có thói quen “trông chờ” vào sự cấp phát vốn của Trung ương. Đã đến lúc chính quyền các địa phương cần thay đổi tư duy về tài chính công, để tìm một hướng đi mới trong việc huy động và đa dạng hóa nguồn vốn. Điều này cũng đồng nghĩa với việc để thúc đẩy phát triển kết cấu hạ tầng, chính quyền các địa phương nhất thiết phải cải thiện hiệu quả đầu tư, đồng thời thúc đẩy hoàn thiện cơ chế tài chính dựa trên thị trường. Theo đó, chính quyền các địa phương có thể huy động vốn cho phát triển kết cấu hạ tầng qua nhiều kênh khác nhau. Thị trường vốn hiện nay rất đa dạng, như thị trường trái phiếu chính quyền địa phương, vốn vay ngân hàng, vốn từ nhà đầu tư tư nhân tham gia dự án đầu tư đối tác công - tư (PPP), đất, quỹ phát triển địa phương.
Bên cạnh những yếu tố trên, việc quan tâm tới vấn đề thị trường - đầu
ra cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cũng là một trong những nội
dung quan trọng. Làm tốt công tác thị trường cũng chính là đảm bảo tính
khép kín bền vững của quy trình sản xuất, kinh doanh. Cùng với việc tập
trung quan tâm ổn định thị trường nội địa, đẩy mạnh xuất khẩu theo
hướng gia tăng giá trị cũng là cách thức hiệu quả để chúng ta duy trì sự
phát triển bền vững. Muốn làm vậy, các ngành sản xuất kinh doanh phải
nâng cao tinh thần chủ động, có chính sách phát triển phù hợp trên cơ sở
Nhà nước có những điều chỉnh chính sách, tạo điều kiện để các doanh
nghiệp phát triển.
Có thể thấy, việc giải đáp một cách cụ thể 5 câu hỏi lớn mà Chủ tịch Ủy
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Nguyễn Thiện Nhân nêu ở trên sẽ
là cách để chúng ta đáp ứng được yêu cầu của tăng trưởng bền vững trong
bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng và cạnh tranh ngày càng gay gắt
như hiện nay.
Nguồn: Tạp chí Tài chính
