
Tin tức
Minh bạch hóa hệ thống tài chính ngân hàng (28/11)
28/11/2014 - 26 Lượt xem
Tôi cho rằng, Thông tư 36 khá toàn diện và tích cực, đặc biệt trong dài hạn, dần đưa thông lệ chuẩn mực quốc tế vào giám sát, quản trị hệ thống NH. Mặt khác, với quy định chặt chẽ hơn sẽ tạo áp lực cải cách đối với các NHTM trong quá trình tái cơ cấu hệ thống NH, nhất là việc kiểm soát hạn chế sở hữu chéo bằng nhiều quy định như: bổ sung khái niệm người có liên quan của cá nhân, tổ chức làm căn cứ duy trì, tính toán các giới hạn cấp tín dụng, góp vốn, mua cổ phần, đầu tư của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; đưa ra tỷ lệ cho vay kinh doanh cổ phiếu của các NHTM với điều kiện cho vay khắt khe hơn...
Đó là nhận định của TS. Võ Trí Thành, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) khi trả lời phỏng vấn phóng viên TBNH về Thông tư 36/TT-NHNN vừa được NHNN ban hành.
Theo ông, những quy định này sẽ góp phần minh bạch hóa, đồng thời giảm thiểu rủi ro hoạt động các NH nói riêng, cả hệ thống nói chung. Nhưng, đấy là về dài hạn?
Còn trong ngắn hạn thì những điều chỉnh này tác động không tích cực đối với thị trường. Thứ nhất là tác động đến thị trường chứng khoán, vì thị trường chứng khoán của Việt Nam cũng chịu nhiều sức ép tâm lý. Với những quy định chặt chẽ hơn thì số lượng NH được thực hiện cho vay sẽ giảm đi tương đối. Và đương nhiên, các thành viên tham gia thị trường tỏ ra lo lắng cho các khoản đầu tư của mình. Điều này đã tác động đến thanh khoản thị trường chứng khoán trong những ngày qua.
Thứ hai, dù không hồi tố đối với những khoản vay cũ, nhưng áp lực thời hạn trả nợ tương đối ngắn tác động đến chi phí điều chỉnh giữa các công ty vay đầu tư cổ phiếu qua NH và ngược lại. Nhất là trong bối cảnh thị trường đang khó khăn thì DN, NH sẽ gặp bất lợi nhất định trong hoạt động kinh doanh.
Song, như tôi đã nói trên, về tổng thể những quy định tại Thông tư 36 góp phần lành mạnh, minh bạch hóa hệ thống tài chính NH, giúp hệ thống phát triển bền vững, ổn định.
Ông nghĩ sao khi có ý kiến cho rằng, NHNN điều chỉnh tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn hơi mạnh tay?
Quan điểm của tôi hơi khác với nhận định trên. Xét trong bối cảnh hiện nay, thanh khoản của NHTM dồi dào. Trong khi nền kinh tế, DN cần được hỗ trợ vốn trung dài hạn nhiều hơn thì tôi nghĩ việc điều chỉnh này không vấn đề gì. Và để cho điều chỉnh này được an toàn, hoạt động thanh tra giám sát của NHNN sẽ phải vất vả hơn để có đầy đủ thông tin lường đón rủi ro có thể phát sinh mà đối phó. Giả dụ, đối với việc nới tỷ lệ này, khi NHTM sử dụng vốn quá mức so với khả năng tài chính của mình có thể xảy ra rủi ro kép là rủi ro kỳ hạn và cơ cấu đồng tiền.
Theo tôi, vấn đề giám sát có vai trò rất quan trọng. Trước đây, nhất là thời điểm 2007 – 2008 kinh tế phát triển nóng, tuy chỉ được phép sử dụng 40% vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn nhưng thực tế các NH cho vay cao hơn nhiều. Nên nếu hệ thống giám sát tốt sẽ ngăn chặn được rủi ro phát sinh. Nhưng có vấn đề không kém quan trọng là ngoài câu chuyện nới tỷ lệ gắn với giám sát thì tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn trong cho vay trung dài hạn phải được linh hoạt trong trung hạn. Tức là không loại trừ khả năng có thể điều chỉnh.
Hay nói cách khác là phải có dư địa về không gian, thời gian để các NHTM điều chỉnh theo các tiêu chí mới, bối cảnh thị trường mới, chứ NHNN không nên điều chỉnh chính sách nhanh và mạnh sẽ gây ra những cú sốc lớn cả về rủi ro, pháp luật, tổn phí của NHTM. Thực tế đã có bài học trước đây, khi cơ quan quản lý bất ngờ thắt cho vay chứng khoán, bất động sản, hay điều chỉnh mạnh tỷ giá… tác động mạnh đến hoạt động NHTM.
Tôi thừa nhận, đúng là đối với thị trường tính “tự giác” của các thành viên tham gia còn yếu thì cần phải có những áp lực đủ mạnh để có điều chỉnh kịp thời. Và rõ ràng ở Việt Nam đối với quá trình cải cách cần có áp lực. Nhưng, áp lực thế nào là vừa đủ? Cái này khó trả lời về lý thuyết mà chúng ta nhìn vào thực tiễn thị trường.
Đối với sức khỏe tài chính các NH hiện nay, tôi nghĩ rằng, với các biện pháp mạnh quá thì cơ thể họ không chịu được. Nhưng nhẹ quá thì lại không đủ áp lực để các NH tự giác thực hiện tái cơ cấu. Điều này đòi hỏi nhà điều hành rút ra bài học kinh nghiệm trước đây và từ thực tiễn đang diễn ra bám sát thông tin về đánh giá mức độ rủi ro, tốc độ thực hiện... để đưa ra những căn chỉnh chính sách cho phù hợp.
Với những điều chỉnh chính sách của NHNN gần đây, theo ông đã đủ tạo áp lực đối với thị trường?
Tôi nghĩ rằng, thời gian qua NHNN đã có những điều chỉnh phù hợp, sát với thực tiễn hơn, nhưng vẫn đủ tạo áp lực cho các NHTM trong quá trình tái cơ cấu, dần tiến tới áp dụng chuẩn mực theo thông lệ quốc tế. Ví dụ như việc ban hành Thông tư 02 với nhiều quy định khắt khe áp dụng theo chuẩn mực quốc tế về xác định tỷ lệ nợ xấu...
Thời điểm đó, nếu áp dụng ngay và đầy đủ các quy định tại Thông tư 02 thì chắc chắn nhiều NH không chịu được, có thể ảnh hưởng đến an toàn hệ thống. Sau đó, NHNN đã điều chỉnh kịp thời bằng việc ban hành Thông tư 09, vẫn áp dụng một số quy định tại Thông tư 02 nhưng đồng thời cũng gia hạn đối với một số quy định khác tại Thông tư này thêm một thời gian nữa.
Tôi nghĩ, thời điểm đó NHNN không thể làm mạnh tay quá. Vì đối với Việt Nam, nhất là hệ thống NH là khu vực rất nhạy cảm, hiệu ứng lan truyền rủi ro hệ thống mạnh thì cần có lộ trình điều chỉnh dần từng bước. Hay như tại Thông tư 36, NHNN khá linh hoạt cho các NH có lộ trình thoái vốn khỏi các công ty con, TCTD khác... đến 12 tháng, không hồi tố các khoản vay cũ...
Ngay cả vấn đề sở hữu chéo, tôi nghĩ NHNN nắm tương đối tốt vấn đề này. Vấn đề ở đây chúng ta dựa trên nguyên tắc, cấp độ nào để xử lý. Thực tế với nền kinh tế dễ tổn thương như tại Việt Nam thì cần cách làm khéo léo, uyển chuyển hơn để tránh đổ vỡ hệ thống NH và ảnh hưởng tới cả nền kinh tế.
Xin cảm ơn ông!
Nguồn: Thời báo Ngân hàng
