Sự tin tưởng của các chuyên gia, đối tác nước ngoài vào sự phục hồi của
nền kinh tế Việt Nam là hoàn toàn có cơ sở. Trong năm 2014, nước ta đã
đạt được kết quả khá toàn diện trong tất cả các lĩnh vực, trong đó có
phát triển kinh tế. Cụ thể, lạm phát được kiểm soát ở mức khoảng 3%, bội
chi ngân sách ở mức 5,3% và bảo đảm nợ công trong giới hạn an toàn,
tăng trưởng GDP đạt 5,9%. Đáng mừng là tăng trưởng xuất khẩu đạt 13%,
với tổng kim ngạch xuất khẩu lần đầu tiên đạt mức 150 tỷ USD, tăng gấp 3
lần so với trước khi nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới. Và
việc xuất siêu trong 3 năm liền cho thấy, chất lượng và giá bán của hàng
hóa xuất khẩu nước ta có đủ sức cạnh tranh với nhiều quốc gia và đã
nhận được sự tin tưởng của các bạn hàng. Trên thị trường tài chính, Việt
Nam thành công trong việc tăng dự trữ ngoại tệ và luôn bảo đảm 12 tuần
nhập khẩu trở lên. Giá trị đồng tiền Việt Nam cũng được kiểm soát, bảo
đảm, nên các doanh nghiệp và đối tác đầu tư, kinh doanh đều yên tâm.
Tuy nhiên, các chuyên gia nước ngoài đánh giá, trong thành công của
việc ổn định tỷ giá, lãi suất, nếu lạm phát được kiểm soát ở mức 5%
cũng sẽ tạo thuận lợi cho nền kinh tế phát triển. Những chính sách này
cần phải tiếp tục được bảo đảm ổn định lâu dài trong chiến lược tăng
trưởng, cũng như có giải pháp để tăng thu hút vốn đầu tư nước ngoài cho
hoạt động đầu tư cơ sở hạ tầng, cải cách thị trường tài chính... Bên
cạnh đó, Việt Nam cần có một kế hoạch rõ ràng về giải quyết nợ xấu trong
quá trình thực hiện cải cách ngành ngân hàng. Theo các đối tác phát
triển, những nỗ lực tăng cường khung pháp lý cho hoạt động của Công ty
quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng gần đây là rất quan trọng, song
phải trả lời câu được hỏi lấy vốn ở đâu ra để giải quyết nợ xấu? Nếu
không có giải pháp đáng tin cậy thì các ngân hàng sẽ ngần ngại khi doanh
nghiệp tư nhân vay vốn, nhất là doanh nghiệp nhỏ. Một lĩnh vực nữa mà
các nhà tài trợ đang mong chờ ở Việt Nam là đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế,
cụ thể là tăng đầu tư công và gấp rút hoàn thành cổ phần hóa 432 tập
đoàn, tổng công ty nhà nước trong hai năm 2014 - 2015, hướng đến một nền
kinh tế thị trường có kỷ luật và phân chia lợi ích công bằng.
Cộng đồng doanh nghiệp tiếp tục đặt kỳ vọng vào cơ hội đầu tư - kinh
doanh sau khi các hiệp định thương mại song phương và đa phương được ký
kết, sự hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN vào năm 2015. Nhưng đi kèm
với thuận lợi thì Việt Nam phải tạo được sức hấp dẫn, cạnh tranh mới khi
hạn mức về thuế quan trong khu vực này sẽ không còn. Những cải cách của
ngành thuế, hải quan cần nhân rộng ra các ngành khác để tạo bước chuyển
mạnh mẽ trong cơ quan quản lý nhà nước. Việc cải cách thủ tục hành
chính cũng phải bảo đảm sự hài hòa với khu vực, thực hiện chương trình
cải cách tư pháp nhằm tăng cường các thiết chế pháp lý, tạo môi trường
kinh doanh không chỉ thuận lợi mà còn an toàn cho người dân và doanh
nghiệp.
Một vấn đề quan trọng nữa trong phát triển kinh tế của nước ta, cải
cách thể chế phải khơi dậy toàn bộ sức mạnh của người dân, phát huy khu
vực tư nhân sẽ tạo nguồn lực lớn cho xã hội, tạo ra ngành công nghiệp
phụ trợ. Để thực hiện mục tiêu này cần tăng thêm số lượng doanh nghiệp
tư nhân và làm cho các doanh nghiệp đó mạnh lên. Khu vực tư nhân phải
được đối thoại với cơ quan công quyền để đưa ra những chính sách đồng
bộ, khả thi. Khu vực này cũng cần được tiếp cận về vốn, tài nguyên và
khoa học công nghệ, thông tin để sẵn sàng hội nhập, kinh doanh hiệu quả
hơn, từ đó giúp nền kinh tế nước ta phát triển lành mạnh, bền vững hơn.
Năm 2015, Chính phủ xác định, tập trung điều hành theo hướng tiếp tục
bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô tốt hơn, vững chắc hơn, phấn đấu đưa mức
tăng trưởng GDP đạt 6,2%. Chủ động kiểm soát lạm phát trong năm 2015
khoảng 5%, giảm nhanh nợ xấu còn 3%. Do vậy, rất cần sự nỗ lực, tập
trung của các các bộ, ngành phối hợp trong việc hoàn thiện hệ thống
chính sách và cả quá trình thực hiện những chính sách này.
Nguồn: Tạp chí Tài chính