1. Thực trạng đội ngũ nhân lực và nhu cầu đào tạo nhân lực ở nông thôn
Hiện nay, trong số 50,4 triệu lao
động, bao gồm cả lao động trong khu vực kinh tế không chính quy hoặc
những lao động tự tạo việc làm, mới chỉ có 7,7 triệu người được đào tạo
(chiếm tỷ lệ rất thấp, chỉ 15,2%). Thêm vào đó, có sự chênh lệch lớn
giữa khu vực thành thị và nông thôn trong số lao động đã qua đào tạo.
Ở khu vực nông thôn, có đến 91% lao
động chưa được đào tạo. Với lao động đã được đào tạo, đào tạo nghề,
trung cấp chuyên nghiệp và cao đẳng, khu vực nông thôn chỉ có khoảng
40-47% so với khu vực thành phố, trong khi lao động nông thôn chiếm hơn 2
lần lao động ở khu vực đô thị. Với trình độ đại học thì tỷ lệ này còn
thấp hơn nhiều, chỉ khoản 15%. Chính vì trình độ kĩ năng thấp như vậy,
nên năng suất lao động của Việt Nam cũng rất thấp.
Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO),
mặc dù kinh tế Việt Nam phát triển tương đối nhanh trong những năm gần
đây, nhưng năng suất lao động của Việt Nam chỉ bằng một nửa của bình
quân của khu vực châu Á. Điều này làm cho Việt Nam không đủ năng lực
cạnh tranh trong tiến trình hội nhập quốc tế, đồng thời đây cũng là một
cản trở lớn cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói
chung và công nghiệp hóa nông thôn, hiện đại hóa nông thôn nói riêng.
Bởi vậy, đẩy mạnh đào tạo lao động kĩ thuật nói chung và khu vực nông
thôn nói riêng là nhiệm vụ cấp bách hiện nay của Việt Nam.
Dự báo trong vòng 5 năm tới, nhu cầu
đào tạo nhân lực ở các trình độ, từ sơ cấp nghề đến đại học và sau đại
học cho khối ngành nông - lâm - nghiệp là khoảng 6,7 triệu người. Đây là
một nhiệm vụ rất khó khăn và nặng nề, đồng thời cũng là một thách thức
rất lớn đặt ra đối với hệ thống đào tạo nước ta trong thời gian tới.
2. Một số giải pháp phát triển giáo dục cho khu vực nông thôn
Thứ nhất, lựa chọn mô hình
phát triển kinh tế phù hợp, xây dựng kế hoạch và xác định lộ trình
chuyển đổi cơ cấu lao động khu vực nông thôn ở từng địa phương. Theo đó,
tùy thuộc vào đặc điểm, khí hậu, địa lí và truyền thống của từng địa
phương, của mỗi tỉnh, thậm chí là mỗi huyện, cần phải lựa chọn mô hình
phát triển kinh tế phù hợp. Mô hình phát triển kinh tế này đặc biệt quan
trọng vì nó là xuất phát điểm, đồng thời cũng là mục đích cần đạt được
của sự nghiệp công nghiệp hóa nông thôn, hiện đại hóa nông thôn của mỗi
địa phương nói riêng và cả nước nói chung.
Thứ hai, quy hoạch lại mạng
lưới cơ sở đào tạo phù hợp với nhu cầu phát triển nhân lực khu vực nông
thôn của cả nước cũng như từng địa phương. Cụ thể, mạng lưới cơ sở đào
tạo từ dạy nghề đến đại học hiện nay chưa được quy hoạch một cách hợp lí
trên từng địa bàn lãnh thổ. Hiện nay, chúng ta đang có hai quy hoạch
mạng lưới các cơ sở đào tạo từ dạy nghề đến đại học cho từng địa phương.
Hai quy hoạch này còn chồng chéo, thiếu sự thống nhất, đồng bộ và chưa
được xây dựng trên quan hệ cung - cầu giữa đào tạo và sử dụng lao động
nên đội ngũ lao động được đào tạo trong thời gian qua đang mất cân đối
nghiêm trọng.
Thứ ba, cải tổ hệ thống thông
tin về thị trường lao động quốc gia cũng như ở từng địa phương. Tuy
nhiên, trong cơ chế thị trường với nền sản xuất luôn biến động, việc quy
hoạch đào tạo nhân lực cần phải được điều chỉnh kịp thời hàng năm để
phù hợp với nhu cầu nhân lực của thị trường lao động (TTLĐ) và để làm
căn cứ đào tạo nhân lực. Ở nước ta, hệ thống thu thập thông tin về TTLĐ
đã có từ nhiều năm nay với hệ thống trung tâm thông tin về TTLĐ từ trung
ương đến địa phương, tuy nhiên, thực tế cho thấy những trung tâm này
hoạt động chưa có hiệu quả.
Thứ tư, phát triển mạnh các
phương thức đào tạo cho người lớn và các cơ sở đào tạo không chính quy.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người nông dân đều có thể học những
cái họ cần trong điều kiện họ có thể, cần từng bước mở rộng các phương
thức dạy học cho người lớn như: Vừa học vừa làm, đào tạo tại cơ sở sản
xuất, tại trang trại,… đồng thời, cần mở rộng các cơ sở đào tạo không
chính quy như các cơ sở trung tâm dạy nghề,… rộng khắp vùng nông thôn.
Có như vậy, các kĩ năng nghề mới đến được với nông dân.
Thứ năm, xây dựng hệ thống
nội dung đào tạo phù hợp với nhu cầu học tập của bà con nông dân để thực
hiện công nghiệp hóa nông thôn, hiện đại hóa nông thôn. Dạy cái gì để
mang lại hiệu quả thiết thực cho bà con nông dân cũng như phù hợp với
nhu cầu chuyển đổi cơ cấu lao động của từng địa phương trong từng điều
kiện kinh tế - xã hội khác nhau là một vấn đề lớn cần lưu ý. Nhu cầu về
nội dung đào tạo của lao động ở nông thôn rất đa dạng từ ngành đến trình
độ. Điều kiện và thời gian học tập của bà con nông dân cũng rất eo hẹp
so với người ở vùng thành phố. Bởi vậy, đào tạo kĩ năng mới cho nông dân
phải lựa chọn nội dung và thời lượng phù hợp, phải cung cấp cho họ
những kiến thức và kĩ năng cần để chuyển đổi cơ cấu lao động, để họ có
thể “ly nông bất ly hương”.
Thứ sáu, đa dạng hóa, “mềm
hóa” hệ thống đào tạo chính quy. Hệ thống đào tạo chính quy cần được cải
tổ để trở nên mềm dẻo, linh hoạt hơn, đáp ứng tốt cho nhu cầu học tập
của nông dân nói riêng và cho người lao động nói chung. Hệ thống đào tạo
cần chuyển từ đào tạo theo niên chế với chương trình đào tạo cứng nhắc,
nặng về lí thuyết sang hệ đào tạo theo tín chỉ với các học phần, mô-đun
liên thông giữa các trình độ để đáp ứng được các nhu cầu đa dạng của
thị trường lao động.
Có thể nói, đào tạo lao động cho khu
vực nông thôn phải gắn liền với mô hình kinh tế, với chuyển dịch cơ cấu
lao động của từng địa phương trong tiến trình công nghiệp hóa nông thôn,
hiện đại hóa nông thôn. Đây là vấn đề khó khăn và phức tạp. Tuy nhiên,
nếu các địa phương chưa định hình được mô hình phát triển kinh tế của
mình, thì vấn đề đào tạo nhân lực phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa
nông thôn, hiện đại hóa nông thôn vẫn chỉ là một mong muốn xa vời.
Nguồn: http://www.ncseif.gov.vn