Hiện nay, sự thiếu hụt nguồn tài chính cho các dự án chống biến đổi
khí hậu, phát triển công nghệ sạch và thân thiện với môi trường là rất
lớn. Theo ước tính của Tổ chức Năng lượng quốc tế (IEA), để giảm một nửa
lượng khí thải toàn cầu vào năm 2050, thế giới sẽ cần một khoản đầu tư
lên đến 46 nghìn tỷ USD, tương đương với 1 nghìn tỷ/năm. Trong điều kiện
đó, trái phiếu “xanh” được xem như một giải pháp hiệu quả, có thể giúp
huy động hàng trăm tỷ USD/năm cho việc phát triển một nền kinh tế “sạch”
và bền vững.
Kênh thu hút vốn hiệu quả cho các dự án “sạch”
Trái phiếu “xanh” được định nghĩa như một loại chứng khoán có thu
nhập cố định nhằm thu hút vốn cho các dự án có lợi ích về môi trường.
Theo đó, các khoản tiền thu được từ việc phát hành trái phiếu này sẽ
được cam kết đầu tư cho các chương trình tăng cường sự thích nghi và
giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu, bao gồm các dự án năng lượng
sạch, sử dụng năng lượng hiệu quả, giao thông công cộng và nước sạch,…
Trái phiếu “xanh” có thể được phát hành bởi chính phủ, các ngân hàng
thương mại, ngân hàng phát triển, các tổ chức tài chính quốc tế, các
công ty….
Có thể nói, trái phiếu “xanh” đang được xem như một kênh thu hút
vốn mới mẻ và hiệu quả cho các giải pháp nhằm thích nghi và giảm thiểu
tác động của biến đổi khí hậu tại nhiều quốc gia trên thế giới. Tại
Tunisia, nguồn vốn từ trái phiếu “xanh” do Ngân hàng Thế giới phát hành
đã giúp nâng cao hiệu quả hệ thống tưới tiêu và cung cấp nước sạch tại
vùng nông thôn nơi các nguồn nước ngầm đang trở nên căng thẳng. Tại
Trung Quốc, trái phiếu “xanh” góp phần giúp cộng đồng giảm nguy cơ bị
tác động do các thảm hoạ tự nhiên thông qua việc ngăn chặn lũ lụt và
phát triển hệ thống cảnh báo. Nguồn vốn từ trái phiếu “xanh” cũng đã hỗ
trợ tích cực cho chính phủ Columbia và Mexico sử dụng năng lượng hiệu
quả cho hệ thống giao thông công cộng.
Kỷ nguyên của trái phiếu “xanh”
Các chuyên gia của Ngân hàng Hồng Công – Thượng Hải (HSBC) nhận
định, kỷ nguyên của trái phiếu “xanh” đã bắt đầu khi mà thị trường này
có tốc độ phát triển vượt bậc trong vài năm gần đây với mức tăng trưởng
bình quân lên tới 55%/năm. Tính đến 2014, giá trị phát hành của trái
phiếu “xanh” toàn cầu đã đạt đạt mức 25 tỷ USD – tăng hơn gấp đôi so
với năm 2013.
Động lực thúc đẩy thị trường trái phiếu “xanh” phát triển nhanh
chóng xuất phát từ chính nhu cầu về nguồn vốn của các nhà phát hành và
các cam kết của nhà đầu tư về tài trợ cho chống biến đổi khí hậu, cũng
như những lợi ích kép mà nó mang lại cho cả nhà đầu tư và nhà phát hành.
Hậu quả của biến đổi khí hậu đã không chỉ làm gia tăng áp lực cho các
chính phủ mà còn tăng chi phí sản xuất của khu vực tư nhân. Trong khi
đó, nguồn lực của các chính phủ không bao giờ đáp ứng đủ cho việc phục
hồi môi trường và đối phó với các nguy cơ về năng lượng, khan hiếm nguồn
nước và lương thực thực phẩm. Do đó, sự đồng hành của khu vực tư nhân
cùng với chính phủ trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu là vô cùng
quan trọng. Trái phiếu “xanh” vừa đem đến nguồn tài chính cho các quốc
gia triển khai các dự án năng lượng sạch, giảm tác động và thích nghi
với biến đổi khí hậu, trong khi mang lại cho các nhà đầu tư nguồn tín
dụng chất lượng cao, lợi tức từ các khoản đầu tư, cùng với những lợi ích
tích cực về mặt môi trường. Bên cạnh đó, công nghệ “sạch” cũng đang là
một xu hướng được các nhà đầu tư lựa chọn dựa trước những lo ngại về
nguy cơ do biến đổi khí hậu và các vấn đề môi trường.
Theo Phó Chủ tịch kiêm Phái viên đặc biệt về vấn đề biến đổi khí
hậu của Ngân hàng Thế giới Rachel Kyte thì trái phiếu “xanh” đang tạo
một dòng vốn mới cho sự phát triển nền kinh tế “sạch” và bền vững. Đồng
thời, trái phiếu “xanh” còn có tiềm năng trong việc dịch chuyển đòn bẩy
tài chính theo hướng “sạch” hơn. Thay vì được đầu tư vào các dự án sử
dụng năng lượng hoá thạch truyền thống, dòng vốn sẽ được chuyển sang các
dự án ít khí thải hơn, có ý nghĩa về mặt môi trường. Qua đó, trái phiếu
“xanh” góp phần đóng góp hiệu quả vào việc xây dựng và phát triển một
nền kinh tế “sạch” và bền vững trong tương lai.
Tiềm năng cho trái phiếu xanh tại Việt Nam
Tại Việt Nam, hậu quả do biến đổi khí hậu đã làm gia tăng mức độ
cũng như chu kỳ xảy ra thiên tai như hạn hán, lũ lụt, nước biển dâng…đã
ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế, xã hội và đời sống
người dân. Nghiên cứu của các tổ chức quốc tế cũng cho rằng biến đổi khí
hậu có thể làm Việt Nam tổn thất 15 tỷ USD/năm, tương đương 5% GDP. Các
cơ quan chức năng Việt Nam cũng ước tính, sự gia tăng 1m của mực nước
biển sẽ tác động đến đời sống của khoảng 20% dân số. Ngập lụt và xâm mặn
do nước biển dâng sẽ làm thu hẹp diện tích đất canh tác trong nông
nghiệp ở cả đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Các ngành
công nghiệp cũng sẽ bị ảnh hưởng do thiếu hụt nguồn nguyên liệu và năng
lượng làm cho chi phí sản xuất tăng cao.
Trước những tác động nghiêm trọng của biến đổi khí hậu đến sự phát
triển kinh tế- xã hội, Chính phủ đã có nhiều chính sách nhằm tạo hàng
lang pháp lý thuận lợi cho việc ứng dụng và phát triển công nghệ thân
thiện với môi trường. Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định số
2612/QĐ-TTg ngày 30/12/2013 phê duyệt Chiến lược sử dụng công nghệ sạch
giai đoạn đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 với mục tiêu tổng quát là
sử dụng công nghệ sạch, thân thiện với môi trường, tăng hiệu quả sử dụng
năng lượng, tài nguyên, phát thải thấp trong sản xuất công nghiệp nhằm
thúc đẩy tăng trưởng “xanh”, hạn chế biến đổi khí hậu và nâng cao đời
sống cộng đồng. Theo đó, đến năm 2020, 100% các dự án đầu tư mới thuộc
các ngành sử dụng nhiều năng lượng, có khả năng gây ô nhiễm nghiêm trọng
cho môi trường phải đáp ứng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về công
nghệ sạch.
Trên thực tế, công nghệ “sạch” cũng đang trở thành xu hướng chung
của các doanh nghiệp, giúp tiết kiệm chi phí, cải thiện môi trường, nâng
cao hiệu suất thông qua việc quản lý, sử dụng bền vững và hiệu quả các
nguồn năng lượng. Tuy nhiên, rào cản lớn nhất cho các doanh nghiệp Việt
Nam chính là thiếu nguồn vốn đầu tư để đổi mới và thay thế công nghệ
hiện có do đầu tư vào công nghệ “sạch” cần một lượng vốn đầu tư ban đầu
lớn hơn nhiều lần so với công nghệ thông thường. Bên cạnh đó, các tổ
chức tín dụng cũng chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc thẩm định và
đánh giá rủi ro khi cấp vốn cho các doanh nghiệp đầu tư, cũng như các
nhà cung cấp công nghệ “sạch”.
Có thể thấy nhu cầu thực tế đang mở ra tiềm năng cho việc thúc đẩy
mạnh mẽ thị trường trái phiếu “xanh” tại Việt Nam. Trong đó, sự phối hợp
tham gia giữa khu vực công với tư nhân, trong nước và ngoài nước, sự
liên kết giữa các tổ chức tài chính, ngân hàng với doanh nghiệp và nhà
cung cấp giải pháp công nghệ là rất cần thiết để huy động tối đa mọi
nguồn lực cho sự phát triển của một nền kinh tế “sạch” và bền vững.
Nguồn: ncseif.gov.vn