Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Đầu tư và nợ công: Hai “mảnh ghép” quan trọng của chiến lược phát triển (22/01)

22/01/2015 - 14 Lượt xem

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được coi là một trong những nguồn tài chính quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt ngoại tệ của các nước nhận đầu tư, nhất là đối với các nước kém phát triển. Hầu hết quốc gia kém phát triển đều không tránh khỏi chu kỳ “thu nhập thấp dẫn đến tiết kiệm thấp, vì vậy đầu tư thấp và rồi hậu quả thu lại là thu nhập thấp”. Để thoát khỏi tình trạng này thì các nước kém phát triển cần vốn đầu tư và kỹ thuật, trong đó vốn đầu tư là cơ sở tạo việc làm, đổi mới công nghệ, kỹ thuật, tăng năng suất lao động...

Trong khi thực tế cho thấy, nợ công là một phần tất yếu trong cơ cấu tài chính của hầu hết quốc gia trên thế giới. Cho dù là các cường quốc kinh tế như Mỹ, Nhật Bản, Liên minh châu Âu (EU) hay các nền kinh tế kém phát triển đều đi vay để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu và sử dụng của chính phủ. Như vậy, điều quan trọng là nếu các quốc gia không sử dụng và quản lý nợ công một cách hợp lý và hiệu quả thì khủng hoảng nợ công có thể xảy ra ở bất kỳ quốc gia hay khu vực nào với những hậu quả nghiêm trọng.

“Mảnh ghép” thứ nhất: Xu hướng chuyển dịch  

Hội nghị Liên Hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) mới đây dự báo, tổng vốn FDI toàn cầu trong năm 2015 có thể lên tới 1.700 tỷ USD.  Hiện dòng vốn đầu tư FDI đang có sự chuyển dịch quan trọng, theo đó, vốn đầu tư từ các nước phát triển, từ các tập đoàn đa quốc gia ngày càng chảy nhiều hơn vào các nước công nghiệp hoá, thay vì các nước đang phát triển như những năm trước đây. Trong khi đó, các nền kinh tế mới nổi cũng gia tăng mạnh đầu tư ra nước ngoài để tiếp cận những thị trường mới.

Theo UNCTAD, các nền kinh tế đang phát triển vẫn dẫn đầu về việc thu hút dòng vốn FDI, với số vốn đầu tư lên đến hơn 800 tỷ USD, chiếm 54% tổng lượng vốn FDI toàn thế giới, tăng 6% so với năm 2013. Trong khi đó, các nước phát triển tiếp nhận dòng vốn FDI có giá trị 650 tỷ USD, tăng hơn 10% so với năm 2013; các nền kinh tế chuyển đổi cũng nhận được 120 tỷ USD từ dòng vốn này. Đặc biệt, nền kinh tế số một thế giới là Mỹ cũng đứng đầu về thu hút vốn FDI.

Các nhà phân tích cho biết, do tác động của việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) cắt giảm quy mô nới lỏng tiền tệ và tăng trưởng kinh tế Trung Quốc chậm lại nên các nhà đầu tư bắt đầu rút mạnh tiền ra khỏi các thị trường mới nổi. Năm 2013, Trung Quốc thu hút ít vốn FDI hơn các nền kinh tế lớn tại Đông Nam Á do lương tăng và lực lượng lao động giảm. Kết quả này vừa được Bank of America Merrill Lynch công bố.

Theo đó, tổng vốn FDI vào Singapore, Malaysia, Indonesia và Philippines đã tăng 7% lên 128,4 tỷ USD năm ngoái. Trong khi đó, vốn FDI vào Trung Quốc lại giảm năm thứ 2 liên tiếp, xuống còn 117,6 tỷ USD.

Hai nguyên nhân chính khiến dòng vốn FDI đang quay trở lại các nước phát triển lại có nhiều lợi thế về cơ sở hạ tầng, nhân công trình độ cao cũng như gắn với thị trường tiêu thụ, trong khi tại những thị trường mới nổi thì kinh tế phục hồi chậm, các chính sách về tài chính và chính trị chưa ổn định. Như vậy, có thể nhận thấy, phân công lao động quốc tế và những diễn biến của nền kinh tế toàn cầu tạo nên những chuyển dịch của dòng vốn FDI cũng như những xu hướng mới trong hợp tác đầu tư toàn cầu.

Cẩn trọng với “mảnh ghép thứ hai”

Nhìn lại suốt chiều dài lịch sử kinh tế thế giới đến nay, hầu như không có nền kinh tế nào - dù chậm phát triển, đang phát triển hay phát triển - tránh được mối lo nợ công. Tất nhiên, nợ công cao không phải lúc nào cũng ngay lập tức dẫn tới các hậu quả nghiêm trọng. Thực tế cho thấy khủng hoảng nợ công chỉ xảy ra khi chính phủ của một quốc gia không thể trả nợ đúng hạn nên phải tuyên bố phá sản hoặc đề nghị cộng đồng quốc tế cứu trợ.

Theo số liệu thống kê, mức nợ công cao nhất hiện nay thuộc về các nền kinh tế phát triển, với việc Mỹ, Nhật Bản, Pháp, Italy, Nga liên tục lâm vào cảnh "nợ như chúa chổm". Dự đoán, nợ công của thế giới trung bình sẽ ở mức tương đương 77,5% GDP năm 2015, trong đó Nhật Bản vẫn là nền kinh tế phát triển có mức nợ công cao nhất, ước khoảng 245,1% GDP.

Theo các chuyên gia, mẫu số chung của hai cuộc khủng hoảng nợ công lớn ở châu Âu bắt đầu từ 2008-2009 và hiện vẫn chưa kết thúc. Với Mỹ Latinh hồi thập niên 1980 là các chính phủ đã vay nợ quá mức để chi tiêu, kể cả đầu tư, trong giai đoạn phát triển kinh tế mạnh nhất. Song nền kinh tế của một quốc gia gặp khó khăn đã dẫn tới hiệu ứng “đôminô” gây đổ vỡ hàng hoạt và thậm chí tác động tiêu cực tới cả nền kinh tế thế giới.

Thông thường, nguyên nhân đầu tiên và cũng là chính yếu dẫn tới khủng hoảng nợ công là khả năng quản trị tài chính công yếu kém và những khoản chi tiêu của chính phủ quá lớn, vượt quá kiểm soát, với bài học lớn nhất còn “nóng hổi” từ cuộc khủng hoảng nợ công mới đây ở Eurozone. Chẳng hạn, GDP của Hy Lạp tăng trung bình 4,3%/năm trong giai đoạn 2001-2007, cao hơn so với mức trung bình của Eurozone là 3,1%.

Tuy vậy, trong giai đoạn này, chi tiêu của chính phủ tăng 87% trong khi nguồn thu của chính phủ chỉ tăng 31%, khiến thâm hụt ngân sách vượt mức trần 3% GDP của EU. Tình hình dân số già và hệ thống lương hưu “quá xông xênh” của Hy Lạp cũng được coi là gánh nặng cho chi tiêu công. Ước tính, tổng số tiền chi cho lương hưu khu vực công của Hy Lạp dự kiến tăng từ 11,5% GDP năm 2005 lên 24% GDP năm 2050.

Kế đến, nguồn thu ngân sách sụt giảm cũng là một nhân tố dẫn tới tình trạng thâm hụt ngân sách và gia tăng nợ công. Ví dụ, trốn thuế và hoạt động kinh tế ngầm là nguyên nhân làm giảm nguồn thu ngân sách của Hy Lạp. Theo WB, nền kinh tế không chính thức ở Hy Lạp chiếm tới 25-30% GDP (so với 13,1% GDP của Trung Quốc và 11,3% GDP của Nhật Bản).

Hệ thống thuế với nhiều mức thuế cao và bộ luật phức tạp cùng với sự điều tiết dư thừa và thiếu hiệu quả của cơ quan quản lý đã tạo điều kiện để tình trạng trốn thuế và nền kinh tế ngầm “nở rộ”.

Nguyên nhân tiếp theo là sự tiếp cận dễ dãi với nguồn vốn đầu tư nước ngoài và việc sử dụng nguồn vốn không hiệu quả. Chính phủ Argentina đã tận dụng uy tín quốc gia đang lên để vay nợ nước ngoài, từ mức tương đương 35% GDP năm 1995 lên gần 65% GDP năm 2001. Trong khi đó, theo WB, ngưỡng nợ an toàn đối với các nước đang phát triển là nợ nước ngoài phải dưới mức 40% GDP.  

Thiếu tính minh bạch và niềm tin của các nhà đầu tư là nguyên nhân cuối cùng và cũng không kém phần quan trọng đối với nguy cơ xảy ra khủng hoảng nợ công. Sự thiếu minh bạch trong số liệu thống kê của một số quốc gia đã làm mất niềm tin của các nhà đầu tư, xuất hiện các làn sóng rút vốn ồ ạt khỏi các ngân hàng, đẩy các quốc gia này vào tình trạng khó khăn trong việc huy động vốn trên thị trường vốn quốc tế. Sự phụ thuộc vào nguồn tài chính nước ngoài đã khiến các nước trở nên rất dễ bị tổn thương trước những thay đổi trong niềm tin của giới đầu tư.

Nguồn: Thời báo Ngân hàng