Đến nay, nhiều dự án quan trọng, chủ yếu thuộc lĩnh vực kết cấu hạ
tầng tuy đã được xác định và nằm trong quy hoạch phát triển dài hạn của
Việt Nam vẫn trong tình trạng chờ vốn. Vấn đề này tuy không mới, nhưng
cho thấy một thực tế là nguồn vốn ngân sách rất hạn chế, đồng thời đã
đến lúc không thể dùng nguồn vốn này đảm nhận chức năng đầu tư cho tất
thảy các dự án phát triển kinh tế. Đơn cử, trong các giai đoạn phát
triển trước, như kế hoạch 5 năm 2006-2010, nguồn ngân sách thường xuyên
đảm nhận trên dưới 40% tổng mức đầu tư cho phát triển, nhưng vài năm gần
đây tỷ trọng này đã giảm dần và dự tính sẽ nhanh chóng lùi xuống khoảng
30%. Thực tế cũng cho thấy, hầu hết các nước đều dành nhiều “đất” cho
giới đầu tư tư nhân tham gia để giảm tải cho ngân sách, tạo điều kiện
cho các thành phần kinh tế tham gia đầu tư trên cơ sở công bằng và minh
bạch.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, từ nay đến năm 2020, trung bình mỗi
năm Việt Nam cần 16-17 tỷ USD cho phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng,
trong khi ngân sách chỉ có thể đáp ứng khoảng 50%. Như vậy, đương nhiên
phần còn lại sẽ phải dựa vào các nguồn khác. Do đó, Chính phủ Việt Nam
đã chủ trương khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân trong nước và quốc tế
tham gia xây dựng các công trình điện, giao thông, cảng biển, sân bay...
theo hình thức PPP. Các bộ, ngành chức năng và địa phương cũng đang
nghiên cứu, phối hợp để sớm công bố một danh mục dự án kêu gọi đầu tư
thông qua PPP.
Các chuyên gia nhận định, một khi PPP đi vào cuộc sống sẽ kích
hoạt nguồn lực to lớn đang tiềm ẩn trong dân, có hệ số an toàn cao hơn
hẳn so với việc dùng vốn ngân sách. Tại diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam
thường niên tổ chức cuối năm 2014, một số nhà đầu tư nêu rõ quan điểm,
nếu áp dụng PPP đối với ngành năng lượng, Việt Nam sẽ khai thác thành
công các nguồn năng lượng tự nhiên để bảo đảm nguồn cung cấp điện ổn
định với giá hợp lý. Đó cũng là hành động góp phần hiện thực hóa các cơ
hội và lợi ích đến từ các hiệp định thương mại tự do mới, đồng thời góp
phần thúc đẩy và củng cố sự lớn mạnh của khu vực doanh nghiệp trong
nước. Hơn nữa, nếu triển khai các dự án PPP trong lĩnh vực năng lượng
tái tạo sẽ giúp Việt Nam giải quyết nhu cầu về năng lượng trong ngắn
hạn, kết hợp bảo vệ môi trường và hỗ trợ quá trinh phát triển bền vững.
Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch & Đầu tư Bùi Quang Vinh, PPP sẽ
mở ra cơ hội và bảo đảm sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp, thể hiện sự
tiến bộ của môi trường đầu tư tại Việt Nam. Trong khi đó, Bộ Giao thông
vận tải cũng đưa ra đề án huy động vốn để xã hội hóa đầu tư kết cấn hạ
tầng hàng không. Theo đó, mục tiêu đến năm 2016 sẽ cơ bản hoàn thành
việc sửa đổi, bổ sung, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật nhằm tạo hành
lang pháp lý để khuyến khích hoạt động đầu tư theo hình thức PPP. Dự
tính, đến năm 2020 lượng vốn từ khu vực tư nhân đóng góp vào các dự án,
công trình hàng không sẽ chiếm tỷ trọng từ 15-20%.
Trong một diễn biến khác, Chính phủ vừa yêu cầu các Bộ Giao thông
vận tải, Xây dựng, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khẩn trương rà
soát lại các dự án có nhu cầu kêu gọi đầu tư theo hình thức PPP, trong
đó chú trọng việc lựa chọn những dự án có nhu cầu bức thiết và có khả
năng hoàn vốn. Các dự án sẽ được công bố công khai, thuộc một số lĩnh
vực quan trọng, bao gồm nhà máy lý chất thải rắn, nước thải; trạm thủy
lợi, trồng rừng, kho chứa nông sản; nâng cấp và xây mới đường bộ, đường
sắt, cảng hàng không...
Các chuyên gia dự báo, năm 2015 sẽ là thời điểm thích hợp để Chính
phủ, các bộ, cơ quan chức năng đẩy mạnh tuyên truyền sâu rộng về hình
thức PPP và tác dụng nhiều mặt của nó đối với đời sống kinh tế-xã hội.
Vấn đề là sự nắm bắt tình hình, tạo dựng lòng tin từ cả phía doanh
nghiệp cũng như chính quyền để PPP đi vào cuộc sống, đáp ứng nhu cầu
thông qua sự chia sẻ cơ hội cũng như nguồn vốn đầu tư giữa các bên liên
quan.
Nguồn: Tạp chí Tài chính