Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Một số vấn đề về chính sách giảm nghèo tại Việt Nam (12/03)

12/03/2015 - 22 Lượt xem

Khái quát về chính sách giảm nghèo của Việt Nam
Chính sách giảm nghèo của Việt Nam có thể phân ra thành hai nhóm, đó là: nhóm chính sách giảm nghèo chung và nhóm chính sách đặc thù. Nhóm chính sách giảm nghèo chung gồm 7 chính sách cơ bảnlà: tín dụng;  hỗ trợ sản xuất, đất sản xuất và trồng rừng;  dạy nghề và tạo việc làm; nhà ở và nước sinh hoạt, giáo dục, đào tạo; y tế, chăm sóc sức khỏe;  trợ giúp pháp lý và hỗ trợ thông tin. Nhóm chính sách đặc thù chủ yếu thuộc hai chương trình lớn tác động đến giảm nghèo đối với vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, nơi có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, đó là Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi (theo Quyết định 135/1998/QĐ-TTg) và Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo (theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP).
 
Thành tựu giảm nghèo của Việt Nam (tính cả theo chuẩn quốc gia và chuẩn quốc tế) trong thời gian qua là rất đáng ghi nhận. Tỷ lệ giảm nghèo mạnh ở cả khu vực thành thị và nông thôn, nhất là trong những năm đầu thực hiện chính sách giảm nghèo.Tỷ lệ nghèo khu vực thành thị giảm mạnh hơn so với tốc độ giảm nghèo ở khu vực nông thôn. Từ năm 1992-2012 tỷ lệ nghèo thành thị giảm 4,6 lần so với 3 lần ở khu vực nông thôn. Tỷ lệ giảm nghèo thành thị luôn duy trì ở mức dưới 10% trong suốt giai đoạn 1998-2012, tỷ lệ ở khu vực nông thôn tuy  giảm nhanh nhưng vẫn duy trì ở mức cao trên 15% năm 2012.
 
 
Tỷ lệ nghèo không chỉ chênh lệch theo khu vực thành thị - nông thôn mà giữa các vùng cũng có sự chênh lệch lớn. Đến năm 2012,tỷ lệ nghèo cả nước là 9,6%, trong đó có 3 vùng có tỷ lệ hộ nghèo dưới 10% là Đông Nam Bộ (1,27%), Đồng bằng sông Hồng  (4,89%), Đồng bằng sông Cửu Long (9,24%). Các vùng còn lại có tỷ lệ nghèo cao là Tây Bắc (28,55%), Đông Bắc (17,39%), Tây Nguyên (15%). Đặc biệt, tỷ lệ nghèo cao trong khu vực đồng bào dân tộc thiểu số chiếm tới trên 50% tỷ lệ nghèo chung cả nước.
            
 
 
Một số bất cập trong chính sách giảm nghèo của Việt Nam
 
Một là, có quá nhiều chính sách về giảm nghèo nên gây ra lúng túng, khó khăn trong triển khai. Việc có quá nhiều chính sách về giảm nghèo được ban hành, dẫn đến tình trạng tản mạn và trùng lặp gây khó khăn cho địa phương trong quá trình triển khai thực hiện chính sách trên thực tế. Cán bộ triển khai trực tiếp mất nhiều thời gian trong tập huấn, tìm hiểu chính sách.
 
Trong giai đoạn 2005-2012, Quốc hội đã ban hành 10 Nghị quyết về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm và 5 năm, trong đó xác định mục tiêu giảm nghèo và một số chính sách giải pháp để thực hiện. Ngoài ra, còn có khoảng 20 văn bản luật quy định chế độ chính sách liên quan đến người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng kinh tế - xã hội khó khăn. Chính phủ và các bộ, ban ngành liên quan cũng ban hành nhiều chính sách về giảm nghèo. Hiện tại, có khoảng 70 văn bản còn hiệu lực, bao gồm 2 nghị quyết của Chính phủ, 10 nghị định, 30 quyết định của Thủ tướng Chính phủ, trên 30 thông tư, thông tư liên tịch của các bộ, ngành. Các địa phương cũng đều có văn bản hướng dẫn triển khai chính sách giảm nghèo ở địa phương.
 
Hai là, nhiều chính sách giảm nghèo chưa nhằm vào nâng cao năng lực tự thoát nghèo cho người nghèo. Một số chính sách giảm nghèo mang tính bao cấp, hỗ trợ trực tiếp nên hình thành tâm lý ỷ lại, thụ động, trông chờ vào hỗ trợ của Nhà nước của một bộ phận người nghèo. Việc này tạo ra hệ lụy không mong muốn của chính sách, đó là người dân không muốn thoát nghèo để được hưởng lợi từ chính sách giảm nghèo và cán bộ cơ sở cũng không muốn địa phương mình thoát nghèo để được hưởng hỗ trợ.
 
Ba là, mức hỗ trợ thấp trong nhiều chính sách dẫn tới dàn trải, khó giúp cải thiện cuộc sống người nghèo; nhiều chính sách ban hành căn cứ trên hiện trạng, nhu cầu nhưng lại chưa cân đối được nguồn lực để thực hiện. Chính sách giảm nghèo có nhiều chính sách hỗ trợ trực tiếp nhưng với mức hỗ trợ rất nhỏ lẻ, làm cho sự hỗ trợ trở nên phân tán, ít mang lại hiệu quả trong giảm nghèo mà chỉ có tính động viên, khắc phục một vài khó khăn trước mắt.
 
Chính sách giảm nghèo thường đặt mục tiêu cao, việc phê duyệt dự án thường dựa trên nhu cầu nhưng không dựa trên cân đối nguồn lực, làm cho nhiều đề án, chính sách luôn trong tình trạng không cấp đủ ngân sách. Điều này dẫn tới khó giải quyết dứt điểm, kém bền vững trong thực hiện chính sách giảm nghèo.
 
Bốn là, ngân sách dành cho giảm nghèo phân bổ chưa tương xứng giữa đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng và hỗ trợ phát triển sản xuất kinh doanh tạo thu nhập cho người nghèo. Nguồn ngân sách hỗ trợ cho hộ nghèo phát triển sinh kế chưa được chú trọng đúng mức, trong khi đó, việc xây dựng kết cấu hạ tầng tốn kém nhiều nhưng hiệu quả mang lại thấp đối với cả vùng, hoặc cơ hội hưởng lợi từ các công trình mang lại cho tất cả người dân trong vùng còn hạn chế. Thực tế, người nghèo ít có cơ hội hơn để hưởng lợi do công trình hạ tầng mang lại so với hộ không nghèo, do họ ít có điều kiện để đa dạng hóa sinh kế, qua đó khó tăng thu nhập để thoát nghèo.
 
Năm là, nhiều hộ nghèo triền miên nhưng lại chưa có chính sách phù hợp đối với họ. Nhiều đồng bào dân tộc nghèo triền miên, đời sống rất thấp và không hoặc rất ít có điều kiện để thoát nghèo.Hầu hết những hộ này là đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Ở những nơi này do cơ cấu kinh tế chậm chuyển dịch, chủ yếu phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp, trong khi điều kiện sản xuất nông nghiệp khó khăn và cơ hội chuyển đổi sang nghề khác rất thấp nên hầu hết thanh niên lớn lên lại làm nông nghiệp giống như cha mẹ mình và cái nghèo đeo bám họ từ đời này sang đời khác. Vì vậy, họ rơi vào vòng luẩn quẩn của nghèo đói không thoát ra được.
 
Sáu là, nhiều hộ thoát nghèo nhưng lại rất dễ tái nghèo trở lại. Hộ mới thoát nghèo, hộ cận nghèo rất dễ bị tái nghèo trở lại khi gặp phải những rủi ro hay cú sốc từ bên ngoài. Các rủi ro về thiên tai, thời tiết, dịch bệnh và rủi ro thị trường là những nguyên nhân chính làm cho hộ nghèo thoát nghèo không bền vững. Điều này cho thấy cần có các chính sách giảm nghèo và chính sách bảo hiểm cũng như chính sách giúp người dân giảm thiểu và thích ứng với rủi ro.
 
Bảy là, chính sách giảm nghèo hiện tại chủ yếu tập trung vào tăng thu nhập cho người nghèo, chưa chú trọng đúng mức việc tăng phúc lợi cho người nghèo. Mặc dù thu nhập là chỉ tiêu quan trọng nhưng thu nhập cũng chỉ là điều kiện cần để nâng cao phúc lợi cho người dân nói chung và người nghèo nói riêng. Việc hỗ trợ để người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản cũng quan trọng không kém với việc hỗ trợ, tạo điều kiện để tăng thu nhập. 

Cần đổi mới chính sách giảm nghèo bền vững trong thời gian tới
 
Việc lồng ghép các chính sách giảm nghèo cần thực hiện ngay ở cấp trung ương. Thực tế ở địa phương, hiện rất khó lồng ghép những chính sách xã hội và chính sách tài chính sử dụng vốn sự nghiệp do mỗi chính sách lại do các cơ quan chủ trì khác nhau với quy trình, đối tượng, phạm vi, ngân sách, định mức, chế độ báo cáo, kiểm tra, giám sát khác nhau. Vì vậy, ngay ở cấp trung ương, các chính sách có cùng nội dung cần được tích hợp, lồng ghép lại và do một cơ quan chủ trì thì sẽ có hiệu quả hơn và dễ thực hiện hơn.
 
Để tháo gỡ tâm lý ỷ lại, cần giảm mạnh những hỗ trợ trực tiếp, cho không và chuyển dần sang hỗ trợ có điều kiện, hỗ trợ có thu hồi và nâng cao ý thức của người hưởng lợi.Chú trọng tập trung ngân sách cho hỗ trợ hộ nghèo phát triển sản xuất kinh doanh để thoát nghèo, nâng cao khả năng tiếp cận thị trường của người nghèo để giúp họ thoát nghèo bền vững.Tạo điều kiện để người nghèo tham gia vào các chuỗi giá trị hàng nông sản. Thay việc hỗ trợ sinh kế tản mạn, nhỏ lẻ hiện nay thành các tiểu dự án hỗ trợ sinh kế cho xã hội và có thời gian hoạt động đủ dài để xây dựng phương án sinh kế giảm nghèo theo điều kiện và khả năng của người dân.
 
Phân loại những hộ nghèo theo nguyên nhân nghèo, nhất là đối với những hộ nghèo triền miên để có chính sách phù hợp. Đối với nhóm hộ không có khả năng thoát nghèo cần có chính sách an sinh xã hội cụ thể như: Nâng cao năng lực cho hộ nghèo, giúp cải thiện sinh kế thoát nghèo bền vững; mở rộng chính sách hỗ trợ sinh kế đối với những hộ mới thoát nghèo, hộ cận nghèo; chuyển dần chính sách giảm nghèo từ việc chỉ tập trung vào tăng thu nhập cho người nghèo sang việc tăng phúc lợi và tạo cơ hội cho người nghèo để giúp họ thoát nghèo bền vững.
 
Tăng cường chính sách giảm nghèo lồng ghép với các chính sách bảo hiểm, giảm thiểu rủi ro và thích ứng với biến đổi khí hậu. Thực tế cho thấy các hộ nghèo dễ bị tổn thương khi gặp các cú sốc từ bên ngoài (thiên tai, thời tiết, dịch bệnh, giá cả tăng thất thường…), và cũng có phản ứng khác nhau trước những cú sốc đó để tránh rơi vào vòng luẩn quẩn.
---------------------------------------------------------
Tài liệu tham khảo
1. Báo cáo kết quả giảm nghèo tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc về giảm nghèo năm 2014 tổ chức tại Hà Nội ngày 5/2/2015
2. Ngân hàng Thế giới. Khởi đầu tốt, Nhưng chưa phải đã hoàn thành: Thành tựu ấn tượng của Việt Nam trong giảm nghèo và những thách thức mới, tháng 6/2012
3. Bùi Sỹ Tuấn, Giảm nghèo và cách tiếp cận từ việc làm, tháng 5/2013

Nguồn: http://www.ncseif.gov.vn