
Tin tức
Việt Nam sẽ ra sao, nếu FDI rời đi! (22/4)
22/04/2015 - 25 Lượt xem
Những ngày qua, câu chuyện Toyota Việt Nam đang cân nhắc có nên ngừng sản xuất ô tô để thay vào việc nhập khẩu ô tô nguyên chiếc về bán tại Việt Nam (theo lộ trình giảm thuế của ASEAN, thuế suất nhập khẩu xe nguyên chiếc sẽ bằng 0%) chưa kịp lắng xuống thì tại Diễn đàn Kinh tế Mùa Xuân với chủ đề "Cải thiện môi trường kinh doanh, biến lời nói thành hành động" do Ủy ban Kinh tế Quốc hội tổ chức ngày 21/4, vấn đề này tiếp tục một lần nữa được hâm nóng.
Khi hết "chu kỳ Samsung"
Là người mở đầu hội nghị, PGs.Ts. Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện
Kinh tế Việt Nam, đã đặt ra hàng loạt câu hỏi "nóng": "Tại sao doanh
nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam không hội nhập quốc tế ngay được ở đất nước
mình, không thể mượn sức để lớn lên; Điều gì sẽ xảy ra nếu chu kỳ tận
dụng lợi thế Việt Nam, của các doanh nghiệp FDI chấm dứt?
Cụ thể, theo ông Thiên, "khi doanh nghiệp FDI vào nhiều, với các công ty
hàng đầu như Samsung, Microsoft, Toyota, chủ thể phát triển của Việt
Nam đã thay đổi sâu sắc. Nhưng xu hướng đó có làm thay đổi đẳng cấp công
nghiệp, đẳng cấp phát triển của Việt Nam như ta mong đợi. Hay chúng ta
kéo thế giới vào đây rồi nhưng không hội nhập được. Samsung họp cả nghìn
DN nhưng cũng chỉ tuyển được 4-5 DN vào làm hỗ trợ", ông Thiên nhấn
mạnh.
Điều này sẽ dẫn tới hai tình huống, một là FDI lấn át các DN nội, hai là
nguy cơ khi FDI rời bỏ Việt Nam. "Như Samsung rút khỏi Thái Nguyên, Bắc
Ninh khi chu kỳ tận thu lợi thế của Việt Nam chấm dứt thì điều gì sẽ
xảy ra?", Viện trưởng Thiên đặt giả thiết.
Đặc biệt, dường như địa phương nào có nhiều DN FDI lớn là tăng trưởng
vọt lên. Chẳng hạn như ở Bắc Ninh, khi có Samsung đầu tư mạnh thì GDP
cao, nhưng năm qua, Samsung chuyển sang đầu tư ở Thái Nguyên, FDI ở tỉnh
này giảm sút, công nghiệp tăng trưởng âm 4,5% và GDP cả năm 2014 chỉ
hơn 0,2%. Thái Nguyên ngược lại, nhờ Tập đoàn này mà có tăng trưởng tới
18,6% và công nghiệp tăng tới 33,4%.
Song thời gian qua, không phải mình Toyota mà Samsung cũng đã từng
nói, nếu Việt Nam không cải thiện gì thì 5-7 năm nữa, Samsung cũng phải
rời đi, trong khi họ đã chiếm 22% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Đây
cũng không phải là lần đầu Viện trưởng Trần Đình Thiên đặt ra vấn đề
này. Cách đây đúng 6 tháng, vào kỳ Mùa Thu của Diễn đàn Kinh tế năm
2014, ông Thiên đã nêu lên vấn đề này khi đặt câu hỏi, các doanh nghiệp
nội địa yếu thế thì tăng trưởng ai làm.
Bằng chứng là số DN nội địa đóng cửa tăng dần từ năm 2010 đến nay, từ
40.000 trong năm 2010 đến 67.832 năm 2014. Trong quý I/2015, con số này
là hơn 16.200, tăng 14,2% so với cùng kỳ.
Trong khi các DN FDI lỗ lớn và chuyển giá, có tới hơn 60% kê khai lỗ kéo
dài, nhưng lại là khu vực có tốc độ tăng vốn nhanh nhất, đặc biệt là DN
lớn như Pepsi, Metro. Đồng thời, tuy lỗ nhưng FDI tăng trưởng doanh thu
và xuất nhập khẩu ngoạn mục nhất, liên tục xuất siêu lớn, chiếm 65-67%
kim ngạch.
Ông Trương Đình Tuyển, Nguyên Bộ trưởng Thương mại
FDI ích gì cho Việt Nam?
Mối lo ngại trên, không riêng gì Viện trưởng Trần Đình Thiên mà tại
Diễn đàn Kinh tế Mùa Xuân này, trong bài tham luận của chuyên gia thống
kê Bùi Trinh và Nguyễn Huy Minh với chủ đề "Thực trạng về cấu trúc vốn
đầu tư và đóng góp của các loại hình doanh nghiệp" cũng đề cập tới vấn
đề này.
Báo cáo này chỉ ra, Việt Nam đang trở thành quốc gia có nền công nghiệp
gia công toàn diện. Nếu giai đoạn 2000-2005, tỷ lệ chi phí trung gian
trên giá trị sản xuất là 53%, giai đoạn 2006-2010, tỷ lệ này là 63%, thì
giai đoạn 2011-2015, con số này đã lên tới 72%.
Đồng thời, tuy GDP có tăng trưởng (dù thực chất nền kinh tế là rất khó
khăn) nhưng tỷ lệ tổng thu nhập quốc gia (GNI) trên GDP ngày càng doãng
ra và lượng tiền từ chi trả sở hữu thuần chảy ra nước ngoài ngày càng
tăng. Tỷ lệ này tăng khoảng 26 lần vào năm 2012 so với năm 2000, lượng
tiền từ chi trả sở hữu thuần chảy ra nước ngoài chủ yếu do các doanh
nghiệp FDI chuyển về quốc gia của công ty mẹ.
Thêm vào đó, tuy tỷ trọng đầu tư của khu vực DNNN trên 40% tổng số vốn
đầu tư nhưng tỷ trọng của khu vực này trong GDP chỉ 32%; trong khi khu
vực kinh tế ngoài nhà nước tuy tỷ trọng vốn đầu tư chỉ khoảng 38% GDP
nhưng tỷ trọng giá trị gia tăng trong GDP của khu vực này chiếm đến 49%
GDP; trong đó, tỷ trọng đóng góp GDP của khu vực kinh tế cá thể chiếm
đến 33%.
Điều này một lần nữa khẳng định nền kinh tế Việt Nam không chỉ là nền
kinh tế gia công mà còn rất manh mún; không một nước nào có thể phát
triển nếu nền kinh tế dựa vào sản xuất gia công và cá thể nhỏ lẻ.
"Thật đáng tiếc là từ năm 2005 đến nay, tỷ trọng này không những không
giảm mà còn có xu hướng tăng lên, từ 32,1% năm 2005 lên 33,2% năm 2012",
chuyên gia Bùi Trinh nhận định.
Đặc biệt, khu vực kinh tế Nhà nước tuy có tỷ trọng đầu tư rất cao (56,6%
và 44,7% trong hai giai đoạn 2001-2005 và 2006-2010) nhưng tạo việc làm
mới thậm chí âm. Song nhìn vào tốc độ tăng trưởng của giá trị sản xuất
và tốc độ tăng trưởng của giá trị gia tăng, có thể thấy hàm lượng giá
trị gia tăng của khu vực FDI và khu vực kinh tế Nhà nước thấp hơn khu
vực kinh tế ngoài Nhà nước khá nhiều, mặc dù hai khu vực này được đủ mọi
loại ưu đãi của chính sách.
Đáng chú ý, chuyên gia Bùi Trinh cho biết, theo tính toán hiệu quả đầu
tư từ hệ số ICOR, khu vực kinh tế ngoài Nhà nước là khu vực có hiệu quả
đầu tư cao nhất nhưng khu vực này lại là khu vực kinh tế khó tiếp cận
nguồn vốn nhất.
Trong khi đó, xu hướng chung cho thấy hiệu quả đầu tư của tất cả các
thành phần sở hữu đều giảm sút. Giảm sút mạnh nhất về hiệu quả đầu tư là
khu vực kinh tế đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), việc giảm sút này có
nguyên nhân chính do báo cáo lỗ giả nhưng lãi thật (chuyển giá) và phần
giá trị gia tăng của khu vực này cơ bản là gia công nên hàm lượng giá
trị gia tăng rất thấp.
Tiếp đó là thông qua chỉ tiêu năng suất nhân tố tổng hợp (TFP), các tác
giả cũng chỉ ra rằng khu vực kinh tế Nhà nước là khu vực có chuyển giao
công nghệ nhiều nhất trong ba khu vực sở hữu. Giai đoạn 2000-2006, đóng
góp của TFP vào tăng trưởng chung của cả nước là 22,6% thì trong đó đóng
góp của khu vực kinh tế Nhà nước cao hơn mức bình quân chung (23,7%),
trong khi khu vực ngoài Nhà nước khoảng 18% và khu vực FDI đóng góp vào
tăng trưởng thậm chí âm.
Giai đoạn 2007-2012, đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp vào tăng
trưởng cả nền kinh tế tuy giảm sút nhanh chóng xuống còn 6,4%, nhưng TFP
của khu vực Nhà nước đóng góp vào tăng trưởng của khối này vẫn cao nhất
(17,4%), khu vực ngoài Nhà nước và khu vực FDI thậm chí âm.
"Như vậy, có thể thấy về thực chất, cho đến nay, khu vực ngoài Nhà nước
làm ăn manh mún, chậm thay đổi và khu vực FDI về bản chất không đưa công
nghệ mới hoặc chỉ đưa công nghệ cũ vào sản xuất. Về cơ bản khu vực FDI
đang lợi dụng các ưu đãi của Việt Nam về chính sách thuế, đất đai và lợi
dụng nhân công giá rẻ và gian lận về thuế (khai lợi nhuận nhỏ đi do
chuyển giá...làm tăng chi phí đầu vào)", nhóm tác giả đánh giá.
Theo Ts.Lê Việt Đức, nếu như trong năm 2013, nhiều quốc gia công nghiệp
phát triển đã tăng cường đầu tư trở lại vào nước ta, thì năm 2014, hầu
hết chỉ là những nước trong khu vực hoặc các nước có công nghệ khá.
Trong 57 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư cấp mới tại Việt Nam
năm 2014, tốp dẫn đầu đều từ nội bộ khu vực châu Á: Hàn Quốc với 6,1 tỷ
USD, chiếm 39,2% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Đặc khu Hành
chính Hồng Kông với 2,8 tỷ USD, chiếm 17,9%; Singapore 2,3 tỷ USD, chiếm
14,8%;…
Nguồn: Tạp chí Tài chính
